.::. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, cơ sở hành chính, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn .::. .............................................................................................................................................................................................................. ........................................  

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc sáu tháng đầu năm có những chuyển biến tích cực. Sản xuất công có mức tăng trưởng khá, ngoài sản phẩm xe máy giảm so cùng kỳ, các sản phẩm chủ yếu còn lại nhìn chung đều tăng; một số sản phẩm tăng cao so cùng kỳ như ô tô tăng 33,27%, hàng chế biến thực phẩm tăng 43,05%, sản phẩm điện tử tăng 95,48%...

 

  Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc sáu tháng đầu năm có những chuyển biến tích cực. Sản xuất công có mức tăng trưởng khá, ngoài sản phẩm xe máy giảm so cùng kỳ, các sản phẩm chủ yếu còn lại nhìn chung đều tăng; một số sản phẩm tăng cao so cùng kỳ như ô tô tăng 33,27%, hàng chế biến thực phẩm tăng 43,05%, sản phẩm điện tử tăng 95,48%... Trong nông nghiệp, năng suất lúa tuy giảm so với cùng kỳ nhưng nhìn chung vẫn được mùa; chăn nuôi tiếp tục phát triển và có mức tăng khá. Các ngành dịch vụ hoạt động kinh doanh ổn định, thị trường hàng hoá, dịch vụ đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội được duy trì; an sinh xã hội được quan tâm; an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Về tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) sáu tháng đầu năm 2015 theo giá so sánh 2010 dự kiến đạt 28.012 tỷ đồng, tăng 7,28% so cùng kỳ năm 2014. Trong đó, tổng giá trị tăng thêm đạt 21.657 tỷ đồng, tăng 5,98% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung là 4,68 điểm %; thuế sản phẩm đạt 6.355 tỷ đồng, tăng 11,94% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung là 2,60 điểm %.

Trong tổng số, giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 2010 đạt 2.331,8 tỷ đồng, tăng 2,97% so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,26 điểm %; riêng ngành nông nghiệp đạt 2.182,5 tỷ đồng, tăng 3,00% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,24 điểm %. Ngành công nghiệp, xây dựng đạt 14.210,7 tỷ đồng, tăng 5,51% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 2,84 điểm %; riêng ngành công nghiệp đạt 13.362 tỷ đồng, tăng 5,78% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 2,80 điểm %. Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ đạt 5.114,6 tỷ đồng, tăng 8,81% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,59 điểm %.

2. Sản xuất Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản

a) Sản xuất Nông nghiệp

+Trồng trọt: Trong tháng Sáu, các địa phương trong tỉnh đã cơ bản thu hoạch xong vụ đông xuân, tích cực làm đất và gieo mạ chuẩn bị cho vụ mùa.

Vụ đông xuân năm nay toàn tỉnh gieo trồng được 63.662 ha cây hàng năm, tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2014. Trong tổng số, diện tích lúa là 30.842 ha, tăng 0,03% so với cùng kỳ năm 2014; ngô đạt 14.416 ha, tăng 7,02%; cây lấy củ có chất bột đạt 4.442 ha, tăng 0,47%; rau các loại đạt 7.255 ha, tăng 1,70% so với cùng kỳ...

Dự kiến, năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu vụ đông xuân như sau: lúa đạt 59,56 tạ/ha, giảm 1,28% so với cùng kỳ, sản lượng đạt 183.700 tấn, giảm 1,24%; ngô đạt 42,81 tạ/ha, tăng 0,59%, sản lượng đạt 61.718 tấn, tăng 7,65%; khoai lang đạt 101,03 tạ/ha, giảm 1,07%, sản lượng đạt 24.378 tấn, giảm 5,21%; rau các loại đạt 209,13 tạ/ha, tăng 2,70%, sản lượng đạt 151,726 tấn, tăng 4,44% so với cùng kỳ... Năng suất, sản lượng lúa vụ đông xuân năm nay giảm hơn năm trước chủ yếu là do một số diện tích lúa vào thời kỳ làm đòng gặp thời tiết rét đậm nên xảy ra hiện tượng bớt đầu bông làm ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng.

Tổng diện tích các loại cây lâu năm hiện có 8.248 ha, giảm 1,00% so với cùng kỳ, trong đó diện tích cây ăn quả là 7.720 ha, chiếm 93,59% diện tích các loại cây lâu năm. Dự án mở rộng diện tích trồng thanh long ruột đỏ được đánh giá là khá thành công được trồng chủ yếu ở một số xã của các huyện Lập Thạch, Phúc Yên, Tam Đảo.

+ Chăn nuôi: Từ đầu năm đến nay, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định, không xảy ra những dịch bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm, lở mồm long móng, tai xanh. Công tác kiểm tra, giám sát ngăn chặn buôn bán, vận chuyển gia súc, gia cầm, sản phẩm gia súc, gia cầm không qua kiểm dịch của cơ quan thú y được tăng cường và thực hiện nghiêm túc; thực hiện đầy đủ các quy trình, trình tự, thủ tục trong quá trình kiểm dịch động vật và sản phẩm động vật. Để chủ động phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở gia súc, gia cầm, bảo vệ sản xuất chăn nuôi, toàn tỉnh đã tổ chức tiêm xong vắc xin đợt I cho đàn gia súc, gia cầm và hiện nay đang tích cực chuẩn bị để tiêm vắc xin đợt II.

Hiện nay việc chăn nuôi thuận lợi giá bán các sản phẩm ổn định ở mức có lợi cho người chăn nuôi; xu hướng chăn nuôi đang có sự chuyển dịch từ nhỏ lẻ sang quy mô trang trại. Quy mô tổng đàn bò, đàn lợn và gia cầm tăng, đặc biệt đàn bò sữa tăng mạnh do việc triển khai tích cực các dự án hỗ trợ phát triển đàn bò sữa; riêng đàn trâu do cơ giới hóa trong nông nghiệp và khu vực chăn thả bị thu hẹp nên giảm cả số lượng và sản lượng. Theo kết quả điều tra chăn nuôi thời điểm 01/4/2015 trên địa bàn tỉnh có 20.144 con trâu, giảm 3,37% so với thời điểm 01/10/2014; 100.325 con bò, tăng 6,50%, trong đó có 7.812 con bò sữa, tăng 97,47% tập trung chủ yếu ở Vĩnh Tường 7.103 con; 509.935 con lợn (không tính lợn sữa), tăng 5,21%; 7.984 ngàn con gia cầm, tăng 2,16% so với thời điểm 01/10/2014. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng sáu tháng đầu năm 2015 dự kiến đạt 53.746 tấn tăng 2,69% so với cùng kỳ. Trong đó, thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 38.226 tấn, tăng 3,85% so với cùng kỳ.

b) Sản xuất lâm nghiệp

Dự kiến sáu tháng đầu năm 2015, các đơn vị có sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh trồng mới được 491,5 ha, giảm 22,40% so với cùng kỳ. Trong đó, rừng sản xuất 455 ha, rừng phòng hộ 10,5 ha, rừng đặc dụng 26 ha. Đầu vụ do chủ động làm tốt công tác chuẩn bị mặt bằng, cuốc hố, khảo sát thực địa, ươm giống cây lâm nghiệp, tập trung lực lượng trồng rừng nên đến nay các đơn vị có sản xuất lâm nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh đã hoàn thành kế hoạch trồng rừng cả năm 2015. Diện tích rừng trồng được chăm sóc ước đạt 446,7 ha, đạt 100% kế hoạch và tăng 11,10% so với cùng kỳ. Diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 9.758 ha, đạt 100% kế hoạch và tăng 7,80% so với cùng kỳ.

Công tác phòng chống cháy rừng đ­ược chỉ đạo tích cực, nguy cơ cháy rừng được cảnh báo thường xuyên, song do thời tiết đầu năm hanh khô kéo dài, độ ẩm trong không khí thấp nên trong sáu tháng đầu năm xảy ra 03 vụ cháy với diện tích cháy 10 ha chủ yếu là rừng phòng hộ với các loại cây như thông, keo, bạch đàn.

c) Sản xuất thuỷ sản

Sản xuất thuỷ sản tiếp tục nhận được sự quan tâm của tỉnh, công tác khuyến ngư được đầu tư và triển khai tích cực. Phần lớn diện tích nuôi trồng thuỷ sản là nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến với hình thức nuôi hỗn hợp; tuy nhiên đã có nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng, sử dụng các giống cá mới có năng suất, chất lượng vào sản xuất như  cá Rô phi đơn tính dòng Đường Nghiệp, chép lai 3 máu, chim trắng, ba ba, trê lai,... nhiều hộ đầu tư nuôi theo phương thức thâm canh và bán thâm canh, sản xuất hàng hóa, tăng năng suất, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật được cải tạo, nâng cấp nên đáp ứng được nhu cầu của thị trường và tạo ra hiệu quả kinh tế cao hơn.

Dự kiến đến hết tháng Sáu, diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt 5.577 ha, đạt 79,67% kế hoạch năm và tăng 1,84% so với cùng kỳ. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu là nuôi cá và ươm giống thuỷ sản. Một số hộ nuôi trồng giống thuỷ sản khác có giá trị cao như ba ba, ếch và cá sấu, tuy nhiên số lượng nuôi trồng ít và nhỏ. Sản lượng thuỷ sản sáu tháng đầu năm dự kiến đạt 9.450 tấn, tăng 2,98% so với cùng kỳ.

3. Sản xuất Công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) trên địa bàn tỉnh tháng Sáu tăng 1,44% so với tháng trước và tăng 13,06% so với cùng kỳ. Chia theo ngành kinh tế cấp I, các ngành tăng (giảm) tương ứng so với tháng trước và cùng kỳ như sau: ngành công nghiệp khai khoáng tăng 5,88% và tăng 16,14%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,42% và tăng 13,20%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 2,31% và tăng 6,26%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 2,14% so tháng trước và giảm 3,95% so cùng kỳ. Chỉ số sản xuất trong tháng tăng do các doanh nghiệp tiếp tục đẩy mạnh sản xuất theo định hướng, kế hoạch đã đề ra từ đầu năm, bên cạnh đó cũng tiếp tục khai thác thế mạnh sản phẩm để tìm kiếm đơn đặt hàng, tăng sản phẩm tiêu thụ, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tính chung sáu tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 2,32% so cùng kỳ năm trước. Chia theo ngành kinh tế cấp I, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 11,58%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,30%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 12,04%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải giảm 2,42%. Tình hình cụ thể từng ngành trong sáu tháng đầu năm như sau:

 - Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 11,58% so với cùng kỳ, sản phẩm của ngành chủ yếu tiêu thụ trong nước, sản phẩm phù hợp với các công trình xây dựng, giá cả hợp lý và phục vụ đến tận chân công trình, tạo ra nền tảng ngày càng vững chắc cho sự phát triển của ngành;

 - Ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 43,05% so với cùng kỳ. Sản phẩm trong ngành ngày càng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của khách hàng; việc cải tiến mẫu mã cũng như đảm bảo về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cũng được các doanh nghiệp đề ra và chú trọng thực hiện. Cùng với đó là cuộc vận động "người Việt dùng hàng Việt" đã giúp cho các doanh nghiệp trong ngành tiêu thụ sản phẩm, phát huy được sản xuất, góp phần đưa chỉ số của ngành tăng khá so cùng kỳ;

- Ngành dệt giảm 2,00% so với cùng kỳ, nguyên nhân là do sản phẩm của ngành luôn mang tính chất thời vụ, phụ thuộc nhiều vào thị trường tiêu thụ; mặt khác các đối tác còn gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm nên lượng đơn đặt hàng giảm dẫn đến chỉ số sản xuất của ngành giảm nhẹ so cùng kỳ;

- Ngành sản xuất trang phục tăng 12,27% so với cùng kỳ. Ngành may mặc trong tỉnh luôn thu hút lượng lớn người lao động bởi lượng đơn đặt hàng từ các đối tác nước ngoài tương đối ổn định. Các doanh nghiệp trong ngành luôn chú trọng đến chất lượng, hình thức, mẫu mã sản phẩm, cũng như liên tục cập nhật xu hướng thời trang mới nhất, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, cũng như sự hài lòng đối tác về chất lượng sản phẩm, mang lại giá trị ngày càng cao cho ngành;

- Ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 4,44% so với cùng kỳ. Ngay từ những tháng đầu năm, các công trình xây dựng công cộng cũng như tư nhân được khởi công ở khắp các địa bàn trên toàn tỉnh. Bên cạnh đó sản phẩm của ngành ngày càng đa dạng về mẫu mã, chất liệu, giá cả, đáp ứng được nhu cầu của mọi đối tượng trong xã hội. Do đó sản xuất của ngành phát triển, giúp tăng chỉ số cho ngành;

- Ngành sản xuất linh kiện điện tử tăng 95,48% so với cùng kỳ. Đây là ngành có mức tăng cao nhất trong sản xuất công nghiệp của tỉnh, cả về quy mô sản xuất cũng như số lượng lao động sử dụng. Cùng với những chính sách thu hút đầu tư của tỉnh, việc ứng dụng công nghệ thông tin cũng như số hóa, các thế hệ máy tính bảng, smart phone ra đời đã tạo ra sự gia tăng đột biến của công nghệ "linh kiện điện tử". Từ đó thu hút nhiều doanh nghiệp sản xuất trong ngành, tạo công việc ổn định cho người lao động và tăng giá trị cho toàn ngành;

- Ngành sản xuất xe có động cơ tăng 33,27% so với cùng kỳ. Thị trường ô tô trong nước có mức tăng trưởng tốt, lượng xe tiêu thụ trong các tháng liên tiếp tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là các nhà sản xuất luôn đặt mục tiêu phục vụ khách hàng lên hàng đầu, những tiêu chí tiện dụng, những tính năng phù hợp với người sử dụng, với môi trường được đưa vào sản phẩm... Cùng với việc đưa ra các chương trình khuyến mại trong bán hàng đã giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ tốt sản phẩm. Từ đó đã ngày càng tạo nên thành công cho ngành và mang lại giá trị sản xuất cao góp phần lớn vào tăng trưởng chung của tỉnh;

- Ngành sản xuất phương tiện vận tải giảm 13,67% so với cùng kỳ. Thực tế hiện nay thị trường tiêu thụ xe máy đang ở mức bão hòa, nhu cầu mua sắm xe máy giảm làm cho sản lượng sản xuất xe máy giảm; kéo theo sản lượng của các doanh nghiệp tham gia công nghiệp phụ trợ như sản xuất phụ tùng xe máy bị sụt giảm đáng kể. Các nhà sản xuất đang tích cực tìm hướng đi mới cho sản phẩm của ngành như sản xuất dòng xe mới với các tính năng vượt trội như tiết kiện nhiên liệu, giá bán hợp lý... đồng thời đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa hoặc sản xuất xe chuyên dụng cho một quốc gia như Nhật Bản, Ấn Độ...Tuy vậy, thực tế là hiện nay số xe máy trên đầu người đã ở mức cao nên việc tiêu thụ vẫn gặp nhiều khó khăn đã làm cho sản xuất của ngành giảm;

- Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt tăng 12,04% so cùng kỳ; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải giảm 2,42% so cùng kỳ. Do thời tiết vào hè, nhiệt độ trung bình tăng hơn so với các năm nên nhu cầu sử dụng điện, nước tăng cao so cùng kỳ;

Dự kiến sáu tháng đầu năm các doanh nghiệp trên địa bàn sản xuất được 135.835  m3 đá các loại, tăng 19,36% so với cùng kỳ; 1.625 tấn chè các loại, tăng 14,20%; 86.397 tấn thức ăn gia súc, tăng 46,37%; 24.844 ngàn quần áo mặc thường, tăng 12,27%; 38.193 ngàn m2 gạch ốp lát, tăng 3,51%; 480.942 ngàn viên gạch xây dựng bằng đất sét, tăng 12,61%; 24.112 xe ô tô các loại tăng 33,27%; 947.771 xe máy các loại, giảm 10,08%; điện thương phẩm 887 triệu kw.h, tăng 12,04%; nước thương phẩm 6.410 ngàn m­3,  tăng 8,35%...

4. Đầu tư - Xây dựng

a) Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và tình hình thực hiện đầu tư xây dựng nguồn NSNN do địa phương quản lý

Công tác chỉ đạo điều hành về quản lý đầu tư XDCB được tỉnh quan tâm chỉ đạo, nhất là khi Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng bắt đầu có hiệu lực từ năm 2015 với nhiều thay đổi trong quản lý đầu tư và xây dựng. Để tổ chức triển khai các thủ tục đầu tư xây dựng khi chưa có Nghị định hướng dẫn của Chính phủ, UBND tỉnh đã ban hành các văn bản số 320/UBND-CN1 ngày 19/01/2015 về thực hiện Luật Xây dựng; văn bản số 3290/UBND-CN1 ngày 29/5/2015 về thực hiện một số thủ tục hành chính liên quan đến Luật Đầu tư công và Luật Xây dựng; Quyết định số 1458/QĐ-UBND ngày 29/5/2015 về việc công bố đơn giá nhân công trong quản lý chi phí đầu tư xây dựng trên địa bàn,...

Công tác chuẩn bị đầu tư được UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt theo đúng qui định của Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng. Các dự án đầu tư được lập, thẩm định chủ trương một cách chặt chẽ về hiệu quả đầu tư và đặc biệt là xác định rõ nguồn vốn (thông qua Hội đồng thẩm định chủ trương của tỉnh) trước khi quyết định chủ trương đầu tư.

Công tác đầu thầu được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. 100% kế hoạch đấu thầu được thẩm định đúng thời hạn hoặc xong trước thời gian quy định. Hình thức lựa chọn nhà thầu trong kế hoạch đấu thầu được xem xét kỹ trong quá trình thẩm định và được cơ quan thẩm định áp dụng đúng các tiêu chí, điều kiện theo quy định.

Việc phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản được quán triệt theo đúng các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số: 1792/CT-TTg, Chỉ thị số 14/CT-TTg; việc xử lý nợ XDCB cũng được chỉ đạo thực hiện theo Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 30/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ và văn bản số 3261/UBND-KT3 ngày 29/5/2015 của UBND tỉnh. UBND tỉnh yêu cầu các dự án được thực hiện đúng theo mức vốn được giao, ưu tiên bố trí vốn cho các dự án hoàn thành, các dự án chuyển tiếp, góp phần giảm nợ đọng XDCB, sớm hoàn thành các công trình, phát huy hiệu quả vốn đầu tư.

Công tác quản lý chất lượng công trình được quan tâm, chỉ đạo quyết liệt và kịp thời uốn nắn, nhắc nhở hoặc xử lý các chủ đầu tư vi phạm về chất lượng công trình xây dựng theo các quy định tại Nghị định số: 15/2013/NĐ-CP ngày 6/2/2013 và Thông tư số 10/2013/TT-BXD ngày 25/7/2013 của Bộ Xây dựng và Quyết định số 29/2013/QĐ-UBND ngày 28/11/2013 của UBND tỉnh. Qua kiểm tra cơ quan quản lý đã tạm dừng thi công 01 công trình; nghiệm thu đưa vào sử dụng 25 công trình.

Công tác quyết toán vốn đầu tư tiếp tục có bước chuyển biến tích cực, đặc biệt sau khi thực hiện Thông báo kết luận số 1644-TB/TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã công bố danh sách chủ đầu tư, nhà thầu chậm quyết toán trên đài PTTH, báo Vĩnh Phúc và cổng thông tin điện tử Vĩnh Phúc. Công tác lập báo cáo quyết toán được các chủ đầu tư thực hiện tích cực, đến 30/5/2015 số dự án/hạng mục công trình chậm lập báo cáo quyết toán đã giảm từ 2.237 xuống còn 1.373 dự án. Hiện nay, UBND tỉnh đang chỉ đạo sở Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục thông tin, cập nhật số liệu và công bố chính thức sau 30/6/2015.

b) Hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư

Sáu tháng đầu năm 2015, UBND tỉnh ban hành chương trình xúc tiến đầu tư năm 2015; tiếp và làm việc với 85 nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu môi trường, cơ hội đầu tư tại tỉnh; tham dự Hội chợ triển lãm EXPO Việt Nam 2015; triển khai Hội nghị sơ kết 3 năm công tác xúc tiến, hỗ trợ đầu tư và triển khai Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp quốc gia tại Vĩnh Phúc; chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án Cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) giai đoạn 2013-2015...

Kết quả, tỉnh đã làm thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 45 dự án. Trong đó, 30 dự án DDI với tổng vốn đầu tư đăng ký 6.073 tỷ đồng (bao gồm 5.928 tỷ đồng đăng ký mới và 145 tỷ đồng đăng ký mở rộng đầu tư), tăng 42,9% về dự án, tăng 147,2% về vốn so với cùng kỳ năm 2014 và đạt 121,5 % kế hoạch; 15 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư 272,5 triệu USD (bao gồm 162,6 triệu USD đăng ký mới và 109,9 triệu USD mở rộng đầu tư), so với cùng kỳ giảm 16,7% về dự án, tăng 149,6% về vốn đăng ký và đạt 136,2% kế hoạch

Về phát triển các khu công nghiệp, dự kiến đến hết tháng Sáu trên địa bàn tỉnh có 09 KCN đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư hạ tầng đăng ký là 4.726,6 tỷ đồng và 166,085 triệu USD. Tỷ lệ lấp đầy các KCN đạt 44,8%, trong đó tỷ lệ lấp đầy trên diện tích đã bồi thường, giải phóng mặt bằng đạt 82,8%.

c) Tổng vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn

Dự kiến tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn sáu tháng đầu năm đạt 8.391,5 tỷ đồng, tăng 11,83% so với cùng kỳ năm 2014. Trong tổng số, vốn nhà nước đạt 2.223,8 tỷ đồng, chiếm 26,50% tổng số, trong đó vốn ngân sách nhà nước đạt 1.924,5 tỷ đồng; vốn ngoài nhà nước 5.148,5 tỷ đồng, trong đó vốn của các tổ chức doanh nghiệp là 673,2 tỷ đồng, vốn đầu tư của dân cư là 4.475,3 tỷ đồng; vốn đầu tư trước tiếp của nước ngoài đạt 1.019,3 tỷ đồng.

5. Tài chính, tín dụng

Sáu tháng đầu năm 2015, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt kết quả cao, dự kiến đạt 11.590 tỷ đồng, bằng 52,00% dự toán năm và tăng 19,13% so với cùng kỳ. Trong tổng số, thu nội địa đạt 10.180 tỷ đồng, bằng 53,00% dự toán năm và tăng 20,74% so cùng kỳ, trong đó thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8.855 tỷ đồng, chiếm 89,90% số thu nội địa và chiếm 76,40% tổng thu ngân sách trên địa bàn. Nguyên nhân thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao so với cùng kỳ là do tình hình tiêu thụ ô tô trong những tháng qua đạt tương đối cao, trong đó cơ cấu tiêu thụ xe có số thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm tỷ trọng cao; bên cạnh đó công tác thanh tra kiểm tra, truy thu thuế được triển khai quyết liệt. Chi ngân sách đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi của tỉnh, dự kiến sáu tháng đầu năm tổng chi ngân sách địa phương đạt 6.163,8 tỷ đồng, đạt 49,00% so dự toán năm 2014, bằng 98,98% so với cùng kỳ trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 41,59% tổng chi ngân sách địa phương.

Hoạt động tín dụng ngân hàng tiếp tục đáp ứng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Các Tổ chức tín dụng tiếp tục triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong quan hệ tín dụng với khách hàng; thực hiện chương trình kết nối giữa Ngân hàng với Doanh nghiệp; tập trung cho vay 5 lĩnh vực ưu tiên;  đưa ra các gói cho vay với lãi suất hấp dẫn; điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, giảm lãi suất cho vay hỗ trợ nhà ở; tiếp tục triển khai các chương trình cho vay mới của Chính phủ; cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện giải ngân vốn vay nhanh gọn, thuận tiện… Nhiều giải pháp về huy động vốn được thực hiện tốt nên tổng nguồn vốn huy động ước đạt 34,6 nghìn tỷ đồng, tăng khá so cùng kỳ (tăng 11,8%). Tổng dư nợ đạt 28,2 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so cùng kỳ và tăng 2,67% so cuối năm 2014. Tỷ lệ nợ xấu đã giảm so với cuối năm 2014 và hiện chiếm tỷ lệ 2,55% trên tổng dư nợ.

6. Thương mại, dịch vụ và giá cả

a) Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động kinh doanh thương mại đáp ứng tốt nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Các hoạt động xúc tiến thương mại, các chương trình bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu, đưa hàng Việt về nông thôn, người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam… tiếp tục được tỉnh chỉ đạo thực hiện tốt. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng sáu tháng đầu năm dự kiến đạt 16.382,2 tỷ đồng, tăng 11,14 % so cùng kỳ năm 2014. Trong đó, kinh tế nhà nư­ớc thực hiện đạt 56,2 tỷ đồng, giảm 39,27%; kinh tế tập thể 15,4 tỷ, giảm 26,23%; kinh tế cá thể 9.175,1 tỷ, tăng 9,6%; kinh tế tư nhân 6.297,1 tỷ, tăng 13,90%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 838,4 tỷ, tăng 15,46% so cùng kỳ năm 2014. Theo nhóm ngành kinh tế, ngành thương nghiệp thực hiện 14.190,3 tỷ đồng, tăng 11,15% so với cùng kỳ; kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 1.506,5 tỷ, tăng 10,73% và các ngành dịch vụ khác thực hiện 685,4 tỷ, tăng 11,95% so cùng kỳ.

b) Xuất, nhập khẩu hàng hoá

Tổng kim ngạch xuất khẩu sáu tháng đầu năm dự kiến đạt 728.897 ngàn USD, tăng 15,67% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, kinh tế có vốn đầu tư  nước ngoài đạt 708.586 ngàn USD, tăng 21,35%; kinh tế trong nước 20.311 ngàn USD, bằng 43,93% so với cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong kỳ là: hàng điện tử 300.588 ngàn USD, tăng 26,66%; phương tiện vận tải và phụ tùng 259.559 ngàn USD, tăng 50,60%; hàng dệt may 103.864 ngàn USD, tăng 2,92% so cùng kỳ. 

Tổng kim ngạch nhập khẩu sáu tháng đầu năm dự kiến đạt 1.123.571 ngàn USD, tăng 25,37% so với cùng kỳ năm trư­ớc. Trong đó, kinh tế Nhà nước đạt 2.364 ngàn USD, tăng 31,85%; kinh tế tư nhân đạt 69.484 ngàn USD, tăng 76,29%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.051.723 ngàn USD, tăng 23,01% so với cùng kỳ năm trước. Hàng nhập khẩu trong kỳ chủ yếu là các nguyên vật liệu để gia công sản xuất như: linh kiện, phụ tùng ô tô, xe máy, vải may mặc, hàng điện tử, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu chế biến...

c) Vận tải hành khách và hàng hoá

Dịch vụ vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa phục vụ sản xuất, kinh doanh, tăng khá so với cùng kỳ cả về doanh thu, khối lượng luân chuyển và vận chuyển. Dự kiến sáu tháng đầu năm vận tải hàng hoá vận chuyển đạt 13.339 ngàn tấn, luân chuyển 928.783 ngàn tấn.km, so với cùng kỳ tăng 1,35% về tấn và tăng 1,57% về tấn.km; vận chuyển hành khách đạt 12.142 ngàn người, luân chuyển 717.449 ngàn người.km, tăng 1,74% về người và tăng 1,85% về người.km so với cùng kỳ. Tổng doanh thu vận tải sáu tháng đầu năm dự kiến đạt 1.591.807 triệu đồng, tăng 5,08% so cùng kỳ.

d) Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Sáu tăng 0,17% so với tháng trước; tăng 0,38% so vớí cùng tháng năm trước và tăng 0,01% so với tháng 12 năm trước. Nguyên nhân chính làm CPI tháng này tăng là do giá một số nhóm hàng chính tăng như: Giao thông tăng 4,10%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 1,08%; may mặc mũ nón giày dép tăng 0,62% ... Các nhóm còn lại giá tương đối ổn định và biến động nhẹ. Tính chung sáu tháng đầu năm, CPI tăng 0,25% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng tương đối thấp so với trước (6 tháng năm 2014 tăng 6,85%), điều này cho thấy công tác bình ổn giá trên địa bàn tỉnh tiếp tục đạt được kết quả tốt. Hàng hoá tiêu dùng đa dạng, đáp ứng tương đối đầy đủ nhu cầu của nhân dân, giá cả phần lớn không có nhiều biến động.

 Diễn biến giá của các nhóm hàng chính trong tháng Sáu năm 2015 như sau:

- Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,36% so với tháng trước do giá các mặt hàng lương thực giảm 0,77%, thực phẩm thiết yếu giảm 0,02%, theo đó ăn uống ngoài gia đình giảm 1,23%;

 - Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,62% do thời tiết nắng nóng kéo dài nên nhu cầu tiêu dùng của người dân về một số loại quần áo mùa hè tăng hơn;

- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,18% chủ yếu ở mặt hàng gas được điều chỉnh giảm 2,03% tương đương 14.000đ/bình/12kg từ ngày 01/6/2015;

- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,15% do thời tiết nắng nóng kéo dài nên thị trường điện lạnh, điện dân dụng được tiêu thụ nhiều hơn. Các mặt hàng điều hoà nhiệt độ và quạt điện đều tăng từ 0,15% đến 1,20%; xà phòng và chất tẩy rửa trong gia đình tăng 0,25%;

- Nhóm giao thông tăng 4,10% do sự điều chỉnh giá xăng dầu của tập đoàn xăng dầu Việt Nam vào các ngày 20/5 và 4/6 năm 2015, đã kéo chỉ số nhóm nhiên liệu tăng 8,46%. Trong tháng, mặt hàng xe gắn máy của Honda cũng được các đại lý tăng từ 300 đến 600 nghìn đồng/xe, tăng 0,89% do chi phí vận chuyển tăng;

- Nhóm văn hoá, giải trí du lịch tăng 1,08% do địa phương có vị trí địa lý, giao thông thuận lợi, với nhiều khu du lịch và danh lam thắng cảnh như: Tam Đảo, Tây Thiên, Bảo Tháp, Đại Lải, Flamingo... đã thu hút được đông đảo lượng du khách tham quan, nghỉ dưỡng nên giá khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ tăng nhẹ tăng 0,55%. Theo đó, giá các tuor du lịch trọn gói trong nước cũng được các công ty du lịch thông báo tăng 2,26% so với tháng trước;

Giá vàng tháng Sáu trên địa bàn tỉnh giảm nhẹ, chỉ số giá trong tháng giảm 0,09% so với tháng trước; giá vàng bình quân trên thị trường tự do là 3.225 nghìn đồng/chỉ. Ngược chiều với giá vàng, giá Đô la Mỹ trên thị trường tự do tiếp tục có biến động tăng 0,17% so với tháng trước; giá bán bình quân phổ biến ở mức 21.663 đồng/USD. Một số nhóm hàng còn lại giá tương đối ổn định.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Công tác giải quyết lao động, việc làm, bảo đảm an sinh xã hội

Với mục tiêu góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, dư thừa lao động và giảm nghèo, trong những năm gần đây tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu tiên chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm, thúc đẩy hoạt động đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Dự kiến sáu tháng đầu năm, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 10.538 lao động, bằng 89,2% so với cùng kỳ và đạt 47,8% kế hoạch. Trong đó, riêng xuất khẩu đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là 570 lao động (tăng 18% so với cùng kỳ và đạt 57% kế hoạch)

Chế độ, chính sách cho các đối tượng chính sách, gia đình khó khăn được các cấp, các ngành quan tâm chăm lo và thực hiện nghiêm theo quy định. Tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt việc thăm hỏi và tặng quà tới các đối tượng chính sách, với tổng số kinh phí là 17,2 tỷ đồng;

Hoạt động Bảo trợ xã hội và giảm nghèo được đặc biệt chú trọng. Từ đầu năm đến nay đã giải quyết chế độ hưởng bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng cho 1.588 lao động, tăng 2,5% so với cùng kỳ; ngoài ra, cấp 10.317 giấy chứng nhận hộ nghèo năm 2015; hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo ở các xã khó khăn, hộ nghèo dân tộc thiểu số theo đúng Quyết định 102/2009/QĐ-TTg ngày 07/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ, với tổng kinh phí trên 5,2 tỷ đồng.

Công tác bảo hiểm xã hội tiếp tục được quan tâm, tỉnh đã thực hiện cấp 55.000 thẻ bảo hiểm y tế cho người hưởng chế độ, người có công, cựu chiến binh và thanh niên xung phong theo đúng quy định.

2. Giáo dục và đào tạo

UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các ngành tiếp tục triển khai thực hiện có hiêu quả Chương trình hành động số 66 - CTr/TU ngày 27/1/2014 của Tỉnh ủy về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; triển khai đánh giá học sinh tiểu học theo yêu cầu mới; triển khai nhân rộng Dự án Mô hình trường học mới (VNEN) cho 25 trường tiểu học; ban hành Kế hoạch triển khai Đề án Hỗ trợ, phát triển nhóm trẻ độc lập tư thục ở khu vực khu công nghiệp đến 2020.

Đội ngũ giáo viên các cấp học tiếp tục được quan tâm đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ, cập nhật phương pháp giảng dạy và đánh giá học sinh theo yêu cầu mới ở bậc tiểu học. Hết năm học 2014-2015, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn các bậc học đều tăng so năm học trước.

Cơ sở vật chất trường học và trang thiết bị học tập được đầu tư đồng bộ theo hướng hiện đại, chuẩn quốc gia và quốc tế, trong đó ưu tiên đầu tư cho một số trường mầm non ở các xã miền núi, xã nghèo thiếu phòng học; nguồn lực bố trí tập trung cho các công trình chuyển tiếp để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng phục vụ nhu cầu học tập của nhân dân. Hết năm học 2014 - 2015, tỷ lệ kiên cố hoá trường lớp các bậc học đều tăng so năm học trước.

Chất lượng giáo dục cả đại trà và mũi nhọn tiếp tục được giữ vững. Kết thúc năm học 2014-2015, tỷ lệ học sinh tiểu học hoàn thành chương trình tiểu học theo yêu cầu mới đạt 99,99%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS đạt 99,4%; toàn tỉnh có 381  học sinh, sinh viên đạt giải cấp quốc gia và khu vực; đạt 02 giải nhất, 05 dự án đoạt giải toàn cuộc trong cuộc thi Nghiên cứu khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học cấp quốc gia năm 2015 - Khu vực phía Bắc.    Kết quả thi chọn học sinh giỏi cấp Quốc gia năm học 2014-2015 tỉnh Vĩnh Phúc đạt thành tích cao. Cụ thể, có 73 em đạt giải trên tổng số 84 em dự thi, chiếm tỷ lệ 86,9 %; trong đó có 4 giải nhất, 25 giải nhì, 19 giải ba và 25 giải khuyến khích.

Để chuẩn bị cho kỳ thi THPT Quốc gia, công tác chuẩn bị trên địa bàn tỉnh được tiến hành đúng kế hoạch, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các điểm thi tại cụm thi tỉnh đang hoàn tất những thủ tục còn lại, đảm bảo kỳ thi diễn ra nghiêm túc, an toàn. Kỳ thi THPT Quốc gia 2015, tỉnh Vĩnh Phúc có khoảng 13.252 thí sinh tham dự. Trong đó, 6.999 thí sinh đăng ký dự thi tại cụm thi liên tỉnh để công nhận tốt nghiệp và xét tuyển đại học, cao đẳng, chiếm 52,81%; 6.253 thí sinh có nguyện vọng thi xét tốt nghiệp được tổ chức thi tại cụm thi tỉnh do Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Trường Đại học Lao động - Xã hội tổ chức thi, chiếm 47,19% tổng số thí sinh. Sở Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Ban coi thi của Kỳ thi THPT Quốc gia với 41 cán bộ giám sát, 496 cán bộ coi thi của 226 phòng thi tại 9 điểm thi của 9 huyện/thành/thị. Để kỳ thi diễn ra an toàn, nghiêm túc, Sở Giáo dục và Đào tạo chủ động phối hợp với các sở, ngành liên quan để chuẩn bị các điều kiện phục vụ kỳ thi, đảm bảo an toàn cho các điểm thi, tăng cường công tác an toàn giao thông, an ninh trật tự trong những ngày thi, chống ùn tắc giao thông, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và công tác y tế trong kỳ thi.

3. Y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm

Chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh được cải thiện ở cả 3 tuyến. Việc ứng dụng một số kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị tiếp tục được triển khai như: Hồi sức cấp cứu, điều trị tích cực, phẫu thuật nội soi. Số xã, phường, thị trấn được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2013- 2020 đạt 36,5% (50/137 xã).

Công tác truyền thông phòng chống dịch bệnh thường xuyên được các ngành chức năng duy trì thực hiện sâu rộng trên địa bàn tỉnh với nhiều hoạt động. Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn tỉnh nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành. Hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông phổ biến kiến thức cho người dân được thực hiện thường xuyên bằng nhiều hình thức phong phú như: Tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cấp phát tờ gấp, treo băng zôn, khẩu hiệu, qua đó nhận thức của người tiêu dùng và các đối tượng sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm được nâng lên.

Công tác y tế dự phòng được quan tâm, trước những diễn biến phức tạp và  nguy hiểm do virut Mers-Cov tại một số nước, UBND tỉnh đã có văn bản số 3394/UBND-VX4 ngày 05/6/2015 chỉ đạo các cấp các ngành chủ động theo dõi và có kế hoạch ứng phó kịp thời.

4. Các hoạt động văn hoá và thể thao,

Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực Văn hoá - thể thao được tăng cường, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá tiếp tục được chú trọng thực hiện và đạt kết quả tốt. Công tác tuyên truyền, tổ chức các hoạt động văn hóa, biểu diễn nghệ thuật, vui chơi giải trí nhân các ngày lễ lớn, các sự kiện tiêu biểu của đất nước, của tỉnh được diễn ra sôi nổi. Tỉnh đã tổ chức đăng cai thành công Giải Việt dã Báo Tiền phong lần thứ 56 và hưởng ứng Lễ phát động ngày chạy Olimpic Việt Nam năm 2015.

Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm. UBND tỉnh đã lập Hồ sơ đề nghị Chính phủ công nhận Di sản Quốc gia đặc biệt đối với Khu di tích danh thắng Tây Thiên và Chùa - Tháp Bình Sơn. Trong kỳ, trò chơi Kéo co (Kéo Soong) thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên được công nhận di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.

Hoạt động thể dục thể thao được tỉnh Vĩnh Phúc duy trì ổn định, các lớp đào tạo năng khiếu thể thao và chế độ tập luyện thường xuyên của các đội tuyển. Cử huấn luyện viên, vận động viên của tỉnh tham gia thi đấu giải Vô địch trẻ Đông Nam Á tại Thái Lan. Kết quả tham gia thi đấu các giải dành được 43 huy chương các loại, trong đó: Thi đấu trong nước đạt 31 huy chương (07 HCV, 04 HCB và 20 HCĐ); thi đấu Thế giới đạt: 01 HCV và 01 HCĐ môn Pencak Silat tổ chức tại Thái Lan, đạt 02 HCB, 04 HCĐ Giải Vô địch Vật tự do, cổ điển trẻ Đông Nam Á tại Thái Lan. Đặc biệt đội bóng chuyền Nữ của tỉnh đã thi đấu xuất sắc và tiếp tục trụ hạng đội mạnh Quốc gia.

Tại Segames 28, đoàn vận động viên thể thao tỉnh Vĩnh Phúc tham dự với 08 vận động viên ở các bộ môn: Bắn súng; Đua thuyền; Wushu; Điền kinh; Penkasilat đã giành 04 huy chương, trong đó: 01 HCV của VĐV Trương Thị Phương ở môn Đua thuyền, 02 HCB của VĐV Nguyễn Thị Yến và VĐV Vũ Văn Hoàng ở môn Penkasilat và 01 HCĐ của VĐV Phan Thị Bích Hà ở bộ môn Điền kinh.

5. Tình hình trật tự an toàn xã hội và tai nạn giao thông

 Công an tỉnh đã mở đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, thành lập các chốt, các tổ tuần tra trên các tuyến đường, địa bàn trọng điểm; tổ chức các phương án, kế hoạch đảm bảo an toàn nhất là trong dịp lễ, tết. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, kiểm soát an toàn giao thông được đẩy mạnh; công tác bảo đảm an ninh, bảo vệ Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng được tỉnh đặc biệt trú trọng.

Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, tính đến ngày 15/5/2015, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 16 vụ tai nạn giao thông, làm 15 người chết và 7 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 3 vụ, số người chết giảm 2 người, số người bị thương tăng 1 người.

6. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc xảy ra 10 vụ cháy, ước tính giá trị thiệt hại 11 tỷ đồng. Trong tháng, phòng Cảnh sát môi trường - Công an tỉnh đã tổ chức kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Qua kiểm tra đã phát hiện nhắc nhở 02 cơ sở vi phạm. Lập hồ sơ xử lý 01 cơ sở vi phạm với số tiền 3,5 triệu đồng.  Tính chung từ đầu năm đến nay, có 13 vụ vi phạm, lập hồ sơ xử lý 12 vụ nâng tổng số tiền phạt lên 180,5 tỷ đồng.

Hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới năm 2015, sáng 05/6/2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Vĩnh Phúc tổ chức Lễ mít tinh hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới năm 2015 với chủ đề “Cùng nhau tiêu dùng có trách nhiệm – vì một trái đất bền vững” tại Quảng trường Hồ Chí Minh. Sau lễ mít tinh, các đại biểu, tình nguyện viên và người dân địa phương cùng tham gia những hoạt động thiết thực như trồng cây xanh, tổng vệ sinh thu dọn rác, giữ gìn vệ sinh môi trường và tuyên truyền cho người dân về Ngày Môi trường Thế giới./.

 

luat_sua_doi_ltk

Đang truy cập: 8
Trong ngày: 61
Trong tuần: 1050
Lượt truy cập: 1423335

Xin cho biết ý kiến của bạn về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc?
Tốt
Khá
Trung bình
Kém

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚCChung nhan Tin Nhiem Mang

Địa chỉ: Số 20

Lý Thái Tổ - Phường Đống Đa - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Điện thoại: 0211 3 861 139, Fax: 0211 3 843 841Email: vinhphuc@gso.gov.vn, cuctk@vinhphuc.gov.vn