.::. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, cơ sở hành chính, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn .::. .............................................................................................................................................................................................................. ........................................  

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2016

File dữ liệu báo cáo (định dạng PDF)

Lời văn

Số liệu

 

 

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Về tăng trưởng kinh tế

Tình hình kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc 6 tháng đầu năm 2016 có những chuyển biến tích cực, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có mức tăng trưởng khá, nhất là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; khu vực dịch vụ và nông nghiệp ổn định; thị trường hàng hóa đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm theo giá so sánh dự kiến đạt 30.282 tỷ đồng, tăng 7,40% so cùng kỳ năm 2015. Trong đó:

- Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp, xây dựng  đạt 14.733 tỷ đồng, tăng 8,51% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 4,10 điểm% (riêng ngành công nghiệp đạt 13.644 tỷ đồng, tăng 7,68%, đóng góp vào tăng trưởng chung là 3,45 điểm %). Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đều có mức tăng trưởng ở cả 3 khu vực: Nhà nước, ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã lấy lại đà tăng trưởng và giữ vai trò chủ lực trong tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp và tăng trưởng chung của tỉnh. Giá trị sản xuất 6 tháng đầu năm của khu vực này tăng 8,86%, đóng góp vào tăng trưởng chung của ngành là 7,31 điểm % trong tăng trưởng chung của ngành là 7,76%. Ba ngành chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp là ngành sản xuất ô tô, xe máy và linh kiện điện tử chiếm hơn 80% tổng giá trị sản xuất. Trong đó, sản phẩm  của ngành sản xuất ô tô tiếp tục tăng so cùng kỳ, giá trị tăng 14,5%; ngành xe máy, tuy số lượng sản phẩm giảm, nhưng do sản xuất các dòng xe có giá trị cao nên giá trị vẫn tăng 1,73%; tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành linh kiện điện tử ngày càng tăng trong ngành công nghiệp, do cuối năm 2015 và 6 tháng đầu năm 2016 đã có thêm nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đi vào sản xuất và tạo ra giá trị sản phẩm lớn.

- Các ngành dịch vụ đạt 6.147 tỷ đồng, tăng 5,11%, đóng góp vào tăng trưởng chung là 1,06 điểm %. Nhìn chung giá trị của các ngành dịch vụ sản xuất đều tăng. Trong đó, ngành vận tải kho bãi tăng 6,27%, thương mại tăng 4,88%, dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 4,91%, tài chính ngân hàng tăng 5,22% so cùng kỳ... Giá trị sản xuất của các ngành hưởng lương từ ngân sách Nhà nước tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó: Quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng tăng 7,7%; Giáo dục đào tạo tăng 6,6; y tế tăng 5%; văn hóa thể thao tăng 6,02%, các ngành dịch vụ khác tăng 6%...

- Ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 2,499 tỷ đồng, tăng 2,22%, đóng góp vào tăng trưởng chung là 0,19 điểm %. Trong nông nghiệp, giá trị sản xuất giảm nhẹ ở ngành trồng trọt, nhưng tăng khá ở ngành chăn nuôi. Tổng giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp tăng 2,79% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành trồng trọt giảm 1,86% so cùng kỳ, làm giảm tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp là 0,9 điểm %; ngành chăn nuôi tăng 7,95%, đóng góp vào tăng trưởng của ngành nông nghiệp là 3,65 điểm %; dịch vụ nông nghiệp tăng 0,68% so cùng kỳ.

- Thuế sản phẩm tăng 9,13% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung là 2,05 điểm %.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

a. Sản xuất nông nghiệp

+ Trồng trọt: Vụ đông xuân 2016, toàn tỉnh đã gieo trồng được 62.712 ha cây hàng năm, giảm 1,49% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, diện tích gieo trồng lúa đạt 31.210 ha, tăng 1,19%; ngô 14.314 ha, giảm 0,71%; khoai lang 1.921 ha, giảm 20,39%; đậu tương 1.758 ha, giảm 23,8%; lạc 2.248 ha, giảm 9,14%; rau các loại 7.185 ha, giảm 0,96%  so với cùng kỳ...

Tính đến ngày 15/6/2016, diện tích lúa và các loại cây trồng vụ đông xuân cơ bản đã thu hoạch xong. Kết quả sơ bộ như sau:

- Năng suất lúa vụ đạt 58,72 tạ/ha, giảm 1,61%, sản lượng đạt 183.279 tấn, giảm 0,43% so với cùng kỳ. Nguyên nhân do thời tiết diễn biến phức tạp, bất thường không theo quy luật tạo điều kiện cho sâu bệnh phát sinh gây hại; đặc biệt chịu ảnh hưởng của cơn mưa lớn kéo dài từ ngày 24 đến ngày 28/5/2016 đã làm cho một số diện tích lúa bị ngập, hư hỏng nặng ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng chung của tỉnh.

- Năng suất, sản lượng một số loại cây chủ yếu khác: ngô đạt 43,17 tạ/ha, tăng 0,58%, sản lượng đạt 61.794 tấn, giảm 0,13%; khoai lang đạt 99,73 tạ/ha, giảm 1,16%, sản lượng đạt 19.156 tấn, giảm 21,31%; đậu tương đạt 18,88 tạ/ha, tăng 2,50%, sản lượng đạt 3.319 tấn, giảm 21,87%; lạc đạt 19,28 tạ/ha, tăng 0,47%, sản lượng đạt 4.339 tấn, giảm 8.59%; rau các loại đạt 206,30 tạ/ha, giảm 1,52%, sản lượng đạt 148.233 tấn, giảm 2,47% so với cùng kỳ...

Gieo trồng vụ mùa đang được các địa phương khẩn trương thực hiện. Tính đến ngày 15/6/2016, toàn tỉnh đã gieo trồng được 200 ha lúa mùa sớm, 75,2 ha ngô, 519 ha rau các loại và 421,5 ha cây hàng năm khác.

Tổng diện tích các loại cây lâu năm hiện có 8.290 ha, tăng 0,50% so với cùng kỳ, trong đó diện tích cây ăn quả là 7.789 ha chiếm 93,90% diện tích các loại cây lâu năm. Diện tích cây ăn quả của tỉnh nhìn chung ổn định, một số diện tích cây trồng thoái hoá, kém chất lượng đã được người dân trồng mới bổ sung thay thế. Các loại cây ăn quả có diện tích tăng hơn so với cùng kỳ như: xoài 756 ha, tăng 4,6%; thanh long 157 ha, tăng 7,3%; bưởi, bòng 464 ha, tăng 5,1%... Diện tích nhãn và vải tuy chiếm lớn trong tổng diện tích cây ăn quả, song giảm so với năm trước (nhãn 776 ha, giảm 0,9%; vải 2.007 ha giảm 2,0%). Nguyên nhân chính là do hiệu quả kinh tế không cao, một số loại cây ăn quả rớt giá nên người dân chuyển đổi sang trồng các loại cây ăn quả khác; ngoài ra việc thu hồi đất để làm khu công nghiệp, công trình công cộng... cũng làm cho diện tích các loại cây trồng này giảm.

Tình hình sản xuất chăn nuôi trên địa bàn tỉnh được duy trì ổn định và có mức tăng trưởng khá. Thời gian qua, giá bán các sản phẩm từ chăn nuôi tương đối ổn định và có lợi cho người sản xuất nên các hộ tích cực đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Công tác kiểm tra, phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và người dân tích cực chủ động thực hiện, nên từ đầu năm đến nay không có bệnh dịch lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh.  Vì vậy, số lượng đàn gia súc, gia cầm được duy trì ổn định và phát triển. Tại thời điểm 01/4/2016, ngoài số lượng và sản lượng trâu giảm, số lượng và sản phẩm các loại gia súc, gia cầm còn lại đều tăng khá so với cùng thời điểm năm 2015.

b. Sản xuất lâm nghiệp

Sáu tháng đầu năm, hoạt động sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh tập trung chủ yếu vào việc chuẩn bị hiện trường trồng rừng, trồng rừng, chăm sóc cây giống và khai thác gỗ cùng với lâm sản khác. Dự kiến 6 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 319 ha, giảm 47,53% so với cùng kỳ, nguyên nhân do dự án hỗ trợ trồng rừng của tỉnh chưa được triển khai và một số địa phương gặp khó khăn trong việc giải phóng mặt bằng; diện tích rừng được chăm sóc đạt 410 ha, giảm 11,5%; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ đạt 9.758 ha, đạt 100%  kế hoạch, tương đương với cùng kỳ năm trước...

Công tác phòng chống cháy rừng đ­ược chỉ đạo tích cực, nguy cơ cháy rừng được cảnh báo thường xuyên nên trong 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy với diện tích cháy 19 ha chủ yếu là rừng phòng hộ với các loại cây như thông, keo, bạch đàn chồi và cây bụi.

c. Sản xuất thuỷ sản

Sáu tháng đầu năm, toàn tỉnh có 10.667 cơ sở nuôi trồng thủy sản, trong đó có 9.841 cơ sở nuôi bằng diện tích mặt nước, 17 cơ sở nuôi lồng bè và có 809 cơ sở tham gia sản xuất giống. Cơ sở sản xuất thủy sản chủ yếu là hình thức hộ cá thể, do vậy diện tích nuôi còn nhỏ lẻ, manh mún nên hiệu quả nuôi trồng chưa cao; một số cơ sở là các trang trại đã từng bước mở rộng quy mô và dần đi vào hình thức nuôi thâm canh, bán thâm canh nhằm tăng năng suất, sản lượng nuôi trồng.

Dự kiến đến hết tháng Sáu, diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt 5.719 ha, tăng 2,55% so với cùng kỳ, chủ yếu là nuôi cá và ươm giống thuỷ sản. Trong đó, diện tích nuôi cá 5.570 ha, diện tích ươm giống 147 ha, diện tích nuôi trồng thuỷ sản khác 2 ha . Sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm dự kiến đạt 9.610 tấn, tăng 2,11% so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 8.700 tấn, tăng 2,66%, thuỷ sản khai thác đạt 910 tấn, giảm 2,86% so cùng kỳ.

3. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm tăng 3,85% so cùng  kỳ năm trước. Chia theo ngành kinh tế cấp I, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4,32%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,85%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 12,45%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải giảm1,46%.

Chia theo ngành kinh tế cấp II, 6 tháng đầu năm nay có 3/10 ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ là: Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,46%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm giảm 3,81%. Bên cạnh sản phẩm thức ăn chăn nuôi có thị trường tiêu thụ tốt do người dân tích cực đầu tư, mở rộng quy mô chăn nuôi, song thị trường một số sản phẩm thực phẩm khác lại bị thu hẹp đầu ra, do đó giá trị sản xuất của ngành giảm so cùng kỳ; ngành sản xuất phương tiện vận tải giảm 5,6%, do thị trường xe máy gần chạm mức bão hòa. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu sản xuất ra những sản phẩm mới, kết hợp tìm kiếm, mở rộng thị trường cho sản phẩm, kỳ vọng sự phát triển tốt hơn trong những tháng cuối năm. Các ngành công nghiệp chủ yếu còn lại nhìn chung đều có chỉ số tăng so với cùng kỳ năm trước, một số ngành tiếp tục có chỉ số tăng cao, đóng góp vào tăng trưởng của ngành cũng như tăng trưởng chung của tỉnh. Trong đó, ngành sản xuất linh kiện điện tử tăng 35,99%. Do cuối năm 2015 và 6 tháng đầu năm 2016 đã có thêm nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đi vào sản xuất, kết hợp với những doanh nghiệp đã sản xuất ổn định từ những năm trước tạo ra giá trị sản phẩm lớn, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành và tăng trưởng chung của tỉnh; ngành sản xuất trang phục tăng 18,80%. Các doanh nghiệp trong ngành này luôn chú trọng đến việc tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp xu hướng và đảm bảo về thời gian để hoàn thành các đơn hàng của đối tác nên lượng đơn đặt hàng ngày càng tăng, đem lại giá trị cao cho ngành; ngành sản xuất xe có động cơ tăng 8,95%. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu sử dụng ô tô của người dân ngày càng tăng cao, từ đó các doanh nghiệp trong ngành liên tục đưa ra thị trường những mẫu xe phù hợp yêu cầu về mẫu mã kiểu dáng, giá thành, đáp ứng nhiều sự lựa chọn của người tiêu dùng...

Ngoài sản phẩm xe máy giảm, các sản phẩm chủ yếu còn lại đều tăng so với cùng kỳ. Dự kiến 6 tháng đầu năm, các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh sản xuất được 113.580 tấn thức ăn gia súc, gia cầm, tăng 1,94% so cùng kỳ; 28.804 ngàn quần áo các loại, tăng 21,72%; 38.844 ngàn m2 gạch ốp lát, tăng 2,56%; 520.120 ngàn viên gạch xây dựng bằng đất sét nung, tăng 11,04%; 28.181 xe ô tô các loại, tăng 9,15%; 905.596 xe máy các loại, giảm 5,49%; doanh thu linh kiện điện tử đạt 8.507 tỷ đồng, tăng 35,94%; điện thương phẩm 1.013 triệu kwh, tăng 12,45%; nước thương phẩm 8.652 ngàn m­3, tăng 8,01%...

4. Đầu tư và xây dựng

Công tác xúc tiến đầu tư năm 2016 tiếp tục được đẩy mạnh, coi trọng hoạt động xúc tiến đầu tư tại chỗ bằng giải pháp quan tâm và giải quyết ngay các khó khăn cho các doanh nghiệp đang đầu tư tại tỉnh; Tiếp và làm việc với nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu môi trường và cơ hội đầu tư tại tỉnh. Kết quả thu hút vốn đầu tư 6 tháng đầu năm như sau:

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Tính từ đầu năm đến nay, tổng số vốn đầu tư FDI tăng thêm là 201 triệu USD. Trong đó, chấp thuận chủ trương đầu tư, cấp mới Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư cho 18 dự án với tổng vốn đầu tư 180 triệu USD; điều chỉnh tăng vốn 10 lượt dự án với tổng số vốn tăng thêm là 21 triệu USD. Tổng số vốn đầu tư FDI giảm là 20,34 triệu USD. Trong đó, điều chỉnh giảm vốn đầu tư cho 02 lượt dự án với tổng số vốn giảm là 8 triệu USD; chấm dứt hoạt động, rút Giấy Chứng nhận đầu tư 03 dự án, tổng vốn đầu tư 12,34 triệu USD.Lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 221 dự án FDIcòn hiệu lựcvới tổng số vốn đăng ký là 3.435,04 triệu USD.

- Đầu tư trực tiếp trong nước (DDI): Tổng số vốn đầu tư DDI trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến nay tăng thêm là 5.936 tỷ đồng, gồm 16 dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư, cấp Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư  với tổng vốn đầu tư đăng ký là 5.885 tỷ đồng; điều chỉnh tăng vốn 06 lượt dự án với tổng số vốn tăng thêm là 51,42 tỷ đồng. Tổng số vốn đầu tư DDI giảm là 747 tỷ đồng do thu hồi Giấy Chứng nhận đầu tư  của 01 dự án đầu tư xây dựng hạ tầng Khu công nghiệp Phúc Yên.Lũy kế đến nay: Toàn tỉnh có 617 dự án DDI còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký là 51.077 tỷ đồng.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm dự kiến đạt 9.516 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn Nhà nước trên địa bàn thực hiện đạt 2.431 tỷ đồng đạt; vốn ngoài Nhà nước đạt 4.553 tỷ đồng; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.532 tỷ đồng.

5. Tài chính, ngân hàng

a. Tình hình thu, chi ngân sách Nhà nước

Tình hình sản xuất kinh doanh 6 tháng đầu năm đã có sự hồi phục, cùng các giải pháp đồng bộ trong công tác điều hành thu ngân sách nhà nước được chỉ đạo quyết liệt nên thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt khá.Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 6 tháng đầu năm dự kiến đạt gần 14,1 nghìn tỷ đồng, bằng 54,4% dự toán, tăng 14,71% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa đạt 12,6 nghìn tỷ đồng, bằng 55% so dự toán và tăng 16,66% so cùng kỳ.

Các khoản chi ngân sách được quản lý và thực hiện tiết kiệm triệt để. Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 6,1 nghìn tỷ đồng, bằng 40,8% dự toán và tăng 0,49% so cùng kỳ năm 2015.

b. Hoạt động ngân hàng, tín dụng

Trong đầu Quý I, lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn có xu hướng tăng nhẹ, chủ yếu do yếu tố mùa vụ, mang tính chất tạm thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán và dự phòng chi trả trong dịp Tết Nguyên đán. Từ tháng Ba đến nay, lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng được duy trì ổn định. Hiện tại, mặt bằng lãi suất của hệ thống ngân hàng trên địa bàn như sau:

- Lãi suất huy động: Mặt bằng lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức từ 0,8% đến 1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; từ 4,5% đến 5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; từ 5,4% đến 6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức từ 6,4% đến 7,2%/năm. Lãi suất huy động USD của các tổ chức tín dụng ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của cá nhân và tiền gửi của tổ chức.

- Lãi suất cho vay: Nhiều ngân hàng thương mại trên địa bàn đã giảm lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Hội sở chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại Nhà nước đã giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND và điều chỉnh giảm lãi suất cho vay trung và dài hạn về tối đa 10%/năm đối với các khách hàng tốt vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Một số ngân hàng thương mại cổ phần giảm lãi suất cho vay ngắn hạn 0,5%/năm đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ưu tiên, áp dụng mức lãi suất ưu đãi tối đa 10%/năm đối với các khoản vay trung dài hạn thuộc các lĩnh vực này. Hiện, mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức từ 6% đến 7%/năm đối với ngắn hạn; từ 9% đến 10%/năm đối với trung, dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức từ 6,8% đến 9%/năm đối với ngắn hạn; từ 9,3% đến 11%/năm đối với trung và dài hạn.

Tính đến 31/05/2016 nguồn vốn huy động đạt 41.858 tỷ đồng, tăng 6,01%; tổng dư nợ tín dụng đạt 35.087 tỷ đồng, tăng 6,6%  so với cuối năm 2015. Dự kiến đến 30/06/2016, tổng nguồn vốn huy động đạt 42.150 tỷ đồng, tăng 6,75%; tổng dư nợ cho vay đạt 35.480 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cuối năm 2015.

6. Thương mại, dịch vụ và giá cả

a. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

 Trong tháng 6 tháng đầu năm, hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh ổn định, các cơ sở kinh doanh thương mại và dịch vụ  không có biến động nhiều cả về số lượng và qui mô; lượng hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng luôn đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng của đời sống xã hội. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm dự kiến đạt 16.976 tỷ đồng, tăng 6,03 % so cùng kỳ năm 2015. Trong đó kinh tế nhà nư­ớc thực hiện đạt 124 tỷ đồng, tăng 10,44%; kinh tế tập thể 22 tỷ, tăng 15,93%; kinh tế cá thể 9.564 tỷ, tăng 6,62%; kinh tế tư nhân 5.970 tỷ, tăng 10,07%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.295 tỷ bằng 87,24% so cùng kỳ năm 2015.

Phân theo nhóm ngành kinh tế, ngành thương nghiệp thực hiện 14.570 tỷ đồng, tăng 6,07% so với cùng kỳ; kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 1.546 tỷ, tăng 6,68%;  các ngành dịch vụ khác thực hiện 860 tỷ, tăng 4,22% so cùng kỳ.

b. Xuất, nhập khẩu hàng hoá 

Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm dự kiến đạt 802,3 triệu USD, tăng  10,10% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, kinh tế có vốn đầu tư  nước ngoài thực hiện 775,1 triệu USD, tăng 9,72%; kinh tế trong nước 27,2 triệu USD, tăng 22,18% so với cùng kỳ. Hàng xuất khẩu đạt kim ngạch cao trong 6 tháng là: hàng điện tử 346,6 triệu USD, tăng 13,84% so cùng kỳ; phương tiện vận tải và phụ tùng 267 triệu USD, tăng 4,48%; hàng dệt may 106 triệu USD, tăng 4,09% so cùng kỳ năm trước.

Tổng kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm dự  kiến đạt 1.165,4 triệu USD, tăng 4,18%  so với cùng kỳ năm trư­ớc. Trong đó, kinh tế Nhà nước nhập 1,4 triệu USD, bằng 59,39%; kinh tế tư nhân 73,1 triệu USD bằng 95,52%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.090,8 triệu USD, tăng 4,92% so với cùng kỳ năm trước. Hàng nhập khẩu chủ yếu trong 6 tháng là: Hàng điện tử và linh kiện 356,2 triệu USD, tăng 61,26%; ô tô các loại (gồm cả linh kiện đồng bộ) 490,3 triệu USD, tăng 13,41%; xe máy các loại (gồm cả linh kiện đồng bộ) 64 triệu USD; vải các loại 45,1 triệu USD...

c. Vận tải hành khách và hàng hoá

Dịch vụ vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa phục vụ sản xuất, kinh doanh. Dự kiến, 6 tháng đầu năm vận tải hàng hoá đạt 14.275 ngàn tấn, luân chuyển đạt 993.770 ngàn tấn.km, so với 6 tháng đầu năm 2015 tăng 6,92% về tấn và tăng 6,99% về tấn.km; khối l­ượng hành khách vận chuyển đạt 13.100 ngàn người, luân chuyển đạt 887.872 ngàn người.km, tăng 5,34% về người và tăng 3,42% về người.km so với cùng kỳ năm 2015.

Tổng doanh thu vận tải 6 tháng đầu năm dự kiến đạt 1.688,7 tỷ đồng, tăng 8,13% so cùng kỳ. Trong đó, vận hành khách đạt 422,2 tỷ đồng, tăng 7,56%; vận tải hàng hoá đạt 1.256,4 tỷ đồng, tăng 8,03% so với cùng kỳ 2015.

d. Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Sáu tăng 0,28% so với tháng trước, tăng 1,92% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,01% so với cùng tháng năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, CPI tăng 1,23% so với cùng kỳ. Nguyên nhân chính làm CPI tháng này tăng là do giá một số mặt hàng như: thực phẩm; đồ uống, thuốc lá; thiết bị đồ dùng gia đình; giao thông... Các nhóm còn lại giá tương đối ổn định và biến động nhẹ.

 Diễn biến giá của các nhóm hàng chính trong tháng Sáu năm 2016 như sau:

- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,03% so với tháng trước và tăng 2,97% so với cùng tháng năm trước. Trong tháng, nhóm ăn uống ngoài gia đình giảm do giá hàng lương thực và giá một số mặt hàng thực phẩm chính yếu giảm: thịt lợn, thịt gà, thủy hải sản tươi sống, mỡ ăn... đã kéo chỉ số chung của nhóm giảm nhẹ;

- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,48%.Chỉ số nhóm này tăng ở mặt hàng nước giải khát có ga, nước tăng lực và bia các loại do thời tiết nắng nóng nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng;

- Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,07%.Thời tiết nắng nóng kéo dài nên nhu cầu tiêu dùng của người dân về một số loại quần áo mùa hè tăng hơn nên thị trường hàng may mặc và quần áo mùa hè diễn ra sôi động;

- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng gảm 0,84%.Chủ yếu là do,giá cho thuê nhà ở giảm 2,48% do là thời điểm bước vào kỳ nghỉ hè của học sinh sinh viên, lượng thuê nhà giảm; giá gạch xây giảm khá, từ 9,26% đến 9,55% đã kéo chỉ số chung của nhóm giảm;

- Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,15%.Nhu cầu tiêu dùng thiết bị và đồ dùng gia đình phục vụ mùa hè tăng nên giá một số mặt hàng tăng giá như: máy điều hòa nhiệt độ tăng 2,32%; tủ lạnh tăng 0,96%; quạt điện tăng 2,03%, máy say sinh tố, ép hoa quả tăng 1,43%.

- Giao thông tăng 3,30%, đây là nhóm có chỉ số tăng cao nhất trong 11 nhóm hàng. Chỉ số nhóm tăng chủ yếu do mặt hàng xăng dầu trong nước được điều chỉnh tăng vào các ngày 20/5 và 4/6/2016;

Giá vàng trên địa bàn giảm nhẹ, chỉ số giá trong tháng giảm 0,30% so với tháng trước, giá vàng bình quân trên thị trường tự do là 3.350 nghìn đồng/chỉ. Ngược chiều với giá vàng, giá Đô la Mỹ trên thị trường tự do biến động tăng 0,42% so với tháng trước; giá bán bình quân phổ biến ở mức 21.617 đồng/USD.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề

Với mục tiêu góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, dư thừa lao động và giảm nghèo, trong những năm gần đây tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, biện pháp khuyến khích, ưu tiên đào tạo nghề, giải quyết việc làm, thúc đẩy hoạt động đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Ngày 22/12/2015, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 207/2015/NQ-HĐND về việc hỗ trợ lao động đi làm việc ở nước ngoài và đi thực tập sinh kỹ thuật ở Nhật Bản theo hợp đồng giai đoạn 2016-2020, theo đó, mỗi đối tượng sẽ được vay tối đa 200 triệu đồng với lãi suất ưu đãi.

Tính từ đầu năm đến hết tháng Năm, Trung tâm giới thiệu việc làm làm tỉnh Vĩnh Phúc đã tổ chức 16 phiên giao dịch việc làm với 452 doanh nghiệp đăng ký tham gia tuyển dụng, hơn 1.500 lượt người đến giao dịch và tuyển được 943 người.  Dự kiến 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 13.228 lao động, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2015; trong đó: lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 2.014 lao động; công nghiệp và xây dựng 7.064 lao động; dịch vụ 3.382 lao động; xuất khẩu 678 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.

2. Công tác bảo đảm an sinh xã hội

Các chế độ, chính sách cho các đối tượng chính sách, gia đình khó khăn được thực hiện nghiêm theo quy định. Hoạt động bảo trợ xã hội và giảm nghèo được đặc biệt chú trọng. Đề án hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng, các chương trình, chính sách hỗ trợ nhà ở cho người nghèo ở khu vực nông thôn và người thu nhập thấp tại các đô thị được thực hiện tốt.

Trong kỳ, đã tổ chức trao hàng chục nghìn xuất quà của Chủ tịch nước, của tỉnh và các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân cho các đối tượng chính sách, người có công, hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn... Các chế độ chính sách BHXH, BHYT được giải quyết kịp thời, đúng chế độ cho các đối tượng thụ hưởng; tính đến hết tháng 5/2015 số người tham gia BHYT trên 815,5 nghìn người, tăng gần 62 nghìn người so với cuồi năm 2015.

3. Giáo dục và đào tạo

Hoạt động giáo dục và đào tạo tiếp tục được triển khai thực hiện quyết liệt và sâu rộng theo Nghị quyết của Trung ương và Chương trình hành động của Tỉnh ủy về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Quy hoạch mạng lưới trường lớp đang được rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện của địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên tiếp tục được nâng cao theo tinh thần Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư và Kế hoạch số 87-KH/TU của Tỉnh ủy về chuẩn giáo viên; Đầu tư cơ sở vật chất trường học từng bước được điều chỉnh giữa các cấp học cho phù hợp với nhu cầu thực tế, nhất là đối với bậc học mầm non; công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được đẩy nhanh tiến độ gắn với yêu cầu chuẩn chất lượng và từng bước chất lượng cao.

Công tác phân luồng học sinh sau THCS được duy trì. Chất lượng giáo dục toàn diện của tỉnh được nâng lên. Năm  học 2015-2016, học sinh giỏi của tỉnh tiếp tục ổn định ở mức cao, mở rộng ở nhiều đối tượng học sinh và có những thành tích xuất sắc, nổi bật, đặc biệt có 2 học sinh đạt giải quốc tế tại kỳ thi Olympic Tin học Châu Á - Thái Bình Dương (huy chương đồng) và cuộc thi Hùng biện tiếng Anh quốc tế EF - Challenge (giành giải nhất); có 1 sản phẩm được cử tham dự cuộc thi quốc tế “nuôi tinh thể - thắp sáng ước mơ Việt Nam 2016” tại Vương quốc Bỉ.

Hoạt động quản lý giáo dục ở các cấp học được quan tâm theo hướng đổi mới. Các cơ sở giáo dục thực hiện tốt các giải pháp phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo theo cách tiếp cận năng lực người học, đặc biệt trong công tác đổi mới chương trình, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, phát triển giáo trình và tài liệu học tập. Đề án dạy và học ngoại ngữ của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2014-2020 tiếp tục được triển khai và đạt kết quả tốt. Tỉnh đã tổ chức tốt mọi điều kiện để triển khai kỳ thi THPT Quốc gia và xét tuyển ĐH-CĐ năm 2016.

Giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp tiếp tục được quan tâm. Các trường chuyên nghiệp và đào tạo nghề đã thực hiện việc đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo, đánh giá kết quả học tập của người học gắn với năng lực thực hiện, bước đầu áp dụng chương trình đào tạo đảm bảo tỷ lệ thời lượng dành cho dạy thực hành, thực tập từ  50- 75% theo hướng đáp ứng chuẩn đầu ra của học sinh tốt nghiệp, mời doanh nghiệp tham gia xây dựng và đánh giá chương trình đào tạo để đáp ứng nhu cầu thị trường; đã tổ chức thành công Hội thi tay nghề tỉnh Vĩnh Phúc năm 2016 với 116 thí sinh của 12 cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh.

4. Y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm

Trong kỳ, ngành Y tế đã chủ động theo dõi, giám sát tình hình bệnh dịch, nhất là các bệnh dịch nguy hiểm mới nổi như dịch MERS-CoV, virut ZICA... Xây dựng kế hoạch phòng chống dịch, tập huấn chuyên môn cho cán bộ y tế từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện và xã; tổ chức truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng chống dịch bệnh, vận động nhân dân chủ động tiêm vắc-xin phòng bệnh, vệ sinh môi trường không để dịch bệnh bùng phát ra cộng đồng. Tính đến điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh không có dịch lớn xảy ra, chỉ xảy ra một số dịch bệnh thông thường như Cúm, Tay - Chân - Miệng, Sởi...

Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn tỉnh nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành. Hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông phổ biến kiến thức cho người dân được thực hiện thường xuyên bằng nhiều hình thức phong phú như: Tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cấp phát tờ gấp, treo băng zôn, khẩu hiệu, qua đó nhận thức của người tiêu dùng và các đối tượng sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm được nâng lên.

 Công tác thanh, kiểm tra các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn tỉnh được duy trì thực hiện thường xuyên và theo kế hoạch tại tất cả các tuyến. Sáu tháng đầu năm, đã thực hiện 2500 lượt thanh, kiểm tra tại 3.636 cơ sở, đạt 68,8% cơ sở được kiểm tra. Kết quả, 83% cơ sở được kiểm tra đạt tiêu chuẩn chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, 17% cơ sở được kiểm tra không đạt tiêu chuẩn; qua đó thực hiện xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Tính từ đầu năm đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm với tổng số 22 người mắc. Ngay khi xảy ra tình trạng ngộ độc thực phẩm, cơ quan chức năng đã phối hợp chặt chẽ với  địa phương tổ chức cứu chữa kịp thời, đồng thời điều tra lấy mẫu xét nghiệm để tìm nguyên nhân theo đúng quy trình. Không có trường hợp nào tử vong do ngộ độc thực phẩm.

Để hạn chế, tiến tới kiểm soát, đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS trên địa bàn, tỉnh Vĩnh Phúc đã tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động và phổ biến các biện pháp phòng chống lây nhiễm trong cộng đồng dân cư, mở các lớp tập huấn  kiến thức về phòng, chống HIV/AIDS, dựng các cụm panô, áp phích, băng rôn, phát hành sách mỏng, tờ rơi, tạp chí về tác hại, con đường dẫn đến lây nhiễm, nguyên nhân khiến HIV/AIDS dẫn đến lây lan nhanh và biện pháp phòng tránh, đồng thời triển khai thực hiện công tác tư vấn, hỗ trợ giúp đỡ, quản lý người nhiễm HIV/AIDS.

5. Các hoạt động văn hoá và thể thao,

Hoạt động văn hoá - thể thao, phát thanh và truyền hình được duy trì, ổn định và phát triển. Sáu 6 tháng đầu năm nhiều hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể thao diễn ra sôi nổi, đa dạng nhằm chào mừng các ngày lễ của đất nước, của tỉnh như các hoạt động tuyên truyền, cổ động phục vụ cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khoá XIV và bầu cử Đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; các hoạt động chào mừng và đón nhận bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt đối với Khu di tích- danh thắng Tây Thiên- Tam Đảo và Di tích Kiến trúc nghệ thuật tháp Bình Sơn- Sông Lô theo Quyết định số 2367/QĐ-TTg ngày 23/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ; tổ chức thành công triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục được chú trọng thực hiện và đạt kết quả tốt.

Các thiết chế văn hoá thể thao gắn với thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới tiếp tục được ưu tiên tập trung đầu tư, nhất là 24 xã đăng ký đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa được đẩy mạnh. 

Phong trào thể dục thể thao quần chúng được nâng cao cả về chất lượng và số môn tập luyện. Tỉnh đã phát động và hưởng ứng tích cực ngày chạy Olimpic Việt Nam năm 2016; tổ chức nhiều giải thi đấu thể thể thao mừng Đảng mừng xuân, kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống ngành thể dục thể thao (27/3). Các giải thể thao quần chúng được tổ chức thường xuyên từ tỉnh đến cơ sở cho nhiều đối tượng, môn thể thao khác nhau hình thành giải truyền thống hàng năm; tổ chức thành công Hội khỏe phù đổng cấp tỉnh năm 2016.

Phát thanh truyền hình, xuất bản các ấn phẩm được quan tâm, cải thiện cả về hình thức và nội dung đáp ứng tốt nhiệm vụ chính trị của tỉnh và góp phần nâng cao dân trí của nhân dân.

6. Tình hình trật tự an toàn xã hội và tai nạn giao thông

Tình hình an ninh trật tự ổn định, trên địa bàn không phát sinh phức tạp về an ninh, trật tự trong các dịp lễ, tết, trước, trong và sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Tình hình an ninh tôn giáo và an ninh nông thôn được giữ vững. Công tác phòng ngừa, tấn công trấn áp tội phạm và tệ nạn xã hội được đẩy mạnh thông qua các đợt cao điểm và các hoạt động thường xuyên tuần tra của lực lượng cảnh sát cơ động tại các tuyến, địa bàn trọng điểm

Tình hình tai nạn giao thông tuy giảm nhưng ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông chưa cao, các lỗi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn còn nhiều. Tính từ đầu năm đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 13 vụ tai nạn giao thông (giảm 5 vụ), làm chết 14 người (giảm 2 người), bị thương 34 người (tăng 24 người). Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động./.

 

luat_sua_doi_ltk

Đang truy cập: 10
Trong ngày: 120
Trong tuần: 1060
Lượt truy cập: 1423709

Xin cho biết ý kiến của bạn về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc?
Tốt
Khá
Trung bình
Kém

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚCChung nhan Tin Nhiem Mang

Địa chỉ: Số 20

Lý Thái Tổ - Phường Đống Đa - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Điện thoại: 0211 3 861 139, Fax: 0211 3 843 841Email: vinhphuc@gso.gov.vn, cuctk@vinhphuc.gov.vn