.::. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, cơ sở hành chính, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn .::. .............................................................................................................................................................................................................. ........................................  

File dữ liệu báo cáo (định dạng PDF)

Lời văn

Số liệu


Năm 2017, là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XVI; tỉnh Vĩnh Phúc triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2017 của tỉnh trong bối cảnh kinh tế - xã hội cả nước phải đối mặt với khó khăn, thách thức như: thiên tai mưa lũ diễn ra trên diện rộng; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số tồn kho cao; khủng hoảng thừa đối với ngành chăn nuôi lợn.... Ở trong tỉnh, các doanh nghiệp sản xuất ô tô cắt giảm sản lượng do chính sách giảm thuế nhập khẩu của nhà nước đối với linh kiện và xe ô tô nguyên chiếc từ các nước ASEAN; thu ngân sách của tỉnh đạt thấp so với dự toán; giá lợn hơi xuống thấp, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi; công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và triển khai thủ tục đầu tư của một số dự án lớn còn chậm; năng lực của doanh nghiệp trong tỉnh còn yếu.... Song, ngay từ đầu năm UBND tỉnh đã ban hành nhiều giải pháp chỉ đạo, điều hành nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017; tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành rà soát các cơ chế, chính sách; tiến hành tổng kết các chương trình, đề án của tỉnh để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho phát triển sản xuất kinh doanh; đồng thời xem xét, giải quyết trực tiếp tại cơ sở các vấn đề thực tiễn phát sinh trên các lĩnh vực... Do đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng khá so với năm 2016; các lĩnh vực văn hoá - xã hội tiếp tục được quan tâm, an sinh xã hội được đảm bảo; an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Kết quả cụ thể trên các lĩnh vực như sau:

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2017 theo giá so sánh ước đạt 73.038 tỷ đồng, tăng 7,68% so với năm 2016. Trong đó:

- Giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 4.545 tỷ đồng, tăng 3,48% so với năm 2016, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,23 điểm %; riêng ngành nông nghiệp đạt 4.215,7 tỷ đồng, tăng 3,46%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,21 điểm %. Trong nông nghiệp, ngành trồng trọt tăng 6,71%, do năng suất, sản lượng các loại cây trồng chủ yếu đều tăng cao so với năm trước, nguyên nhân chủ yếu là vụ mùa năm 2016 nhiều diện tích lúa, ngô và rau các loại bị ngập sâu, mất trắng không cho thu hoạch; chăn nuôi, tuy đàn lợn giảm nhưng sản lượng gia cầm, trứng, trâu, bò, sữa bò tăng khá nên ngành chăn nuôi vẫn tăng 1,57% so với năm 2016.

- Tổng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp, xây dựng đạt 35.670 tỷ đồng, tăng 10,14% so với năm 2016, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 4,84 điểm %. Trong đó, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp đạt 33.084 tỷ đồng, tăng 10,14%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 4,49 điểm %.

Trong sản xuất công nghiệp, ngành sản xuất ô tô giảm mạnh do chính sách thuế của nhà nước; ngành sản xuất xe máy đã phục hồi, sản phẩm sản xuất các tháng đều tăng so với tháng trước và cùng kỳ, đặc biệt từ tháng Bảy trở lại đây, dự kiến cả năm đạt khoảng trên 2 triệu xe (Không tính sản xuất tại Hà Nam), tăng 8,11% so với năm 2016; ngành sản xuất sản phẩm điện tử do đã có thêm nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đi vào sản xuất và tạo ra giá trị sản phẩm lớn, doanh thu linh kiện điện tử dự kiến cả năm 2017 đạt trên 46 ngàn tỷ đồng (năm 2016 giá trị của ngành này chỉ bằng 83% giá trị của ngành sản xuất ô tô, năm 2017 đã gấp trên 1,6 lần), tăng trên 62% so với năm trước, trở thành một trong ba ngành đóng góp chính cho tăng trưởng của ngành công nghiệp cũng như tăng trưởng chung của tỉnh;

- Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển. Giá cả thị trường ổn định, mạng lưới và cơ sở hạ tầng các trung tâm thương mại, chợ và các cơ sở kinh doanh tiếp tục được mở rộng và ngày càng hoàn thiện... Tổng giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ đạt 15.575 tỷ đồng, tăng 8,28% so với năm 2016, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,76 điểm %. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 17.247 tỷ đồng, tăng 3,47% so với cùng kỳ, đóng góp vào mức tăng trưởng chung của tỉnh là 0,85 điểm %.

Cơ cấu kinh tế năm 2017 của tỉnh Vĩnh Phúc là: Khu vực I (Nông, lâm nghiệp và thủy sản) 8,52%; khu vực II (Công nghiệp - xây dựng) 59,62%; khu vực III (các ngành dịch vụ) 31,86%.

2. Tài chính, ngân hàng

Năm 2017, tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác quản lý thu, ban hành các Chỉ thị về việc tập trung thực hiện nhiệm vụ tài chính ngân sách năm 2017 và tăng cường các biện pháp quản lý nguồn thu và chống thất thu thuế dối với hoạt động kinh doanh xăng dầu; ban hành Kế hoạch đề ra giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ chính quyền địa phương trong thời gian tới theo hướng bảo đảm nền tài chính an toàn, bền vững góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; Quyết liệt chỉ đạo nhiều giải pháp đồng bộ trong công tác thu ngân sách nhà nước, trong đó tập trung khai thác các nguồn thu trên tất cả các lĩnh vực; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế, trốn thuế, nợ thuế.... Tuy nhiên, do ảnh hưởng chủ yếu từ thay đổi chính sách thuế nhập khẩu linh kiện và xe ô tô nguyên chiếc từ các nước ASEAN dẫn đến thu ngân sách từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh, tổng thu ngân sách trên địa bàn không đạt so với dự toán HĐND tỉnh giao. Ước tổng thu ngân sách nhà nước năm 2017 (không bao gồm thu chuyển nguồn) đạt 25,37 nghìn tỷ đạt 75% dự toán và bằng 77% so với thực hiện năm 2016 (riêng thu nội địa đạt 22 nghìn tỷ đồng đạt 71,6% dự toán năm 2017). Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2017 đạt 28,55 nghìn tỷ đồng (đã bao gồm các khoản dự kiến chi chuyển nguồn) bằng 171,3% so với dự toán và 101% so với cùng kỳ.

 Công tác tài chính tín dụng trên địa bàn tăng trưởng cao và ổn định, góp phần hỗ trợ thị trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các tổ chức tín dụng đã thực hiện nhiều biện pháp huy động vốn từ các nguồn; kết quả, tổng nguồn vốn huy động năm 2017 uớc đạt 59,86 ngìn tỷ đồng, tăng 22,3% so với cuối năm 2016. Về hoạt động tín dụng, các tổ chức tín dụng tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, đẩy mạnh giải ngân với các chương trình tín dụng ưu đãi, tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên (chiếm 90% tổng dư nợ).... Ước dư nợ cho vay đạt 53,48 nghìn tỷ đồng, tăng 26,54% so với cuối năm 2016. Công tác xử lý nợ xấu được triển khai tích cực nhằm kiểm soát ở mức an toàn dưới 3% tổng dư nợ, ước đến 31/12/2017, nợ xấu chiếm tỷ lệ 1,33% tổng dư nợ. Nợ xấu đạt thấp phản ánh kết quả điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Vĩnh Phúc đối với các tổ chức tín dụng, đồng thời cũng phản ánh những cố gắng của hệ thống ngân hàng thương mại trong việc nâng cao chất lượng tín dụng toàn địa bàn.

3. Chỉ số giá tiêu dùng

Thị trường hàng tiêu dùng trên địa bàn tỉnh tháng Mười hai nhìn chung ổn định, giá các mặt hàng không có biến động lớn, nguồn cung hàng hóa dồi dào đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng tăng 0,16% so tháng trước và tăng 5,34% so với tháng Mười hai năm 2016. CPI tháng Mười hai tăng ở 5/11 nhóm hàng chính là: Nhóm lương thực tăng 0,25%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,25%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,88%; nhóm giao thông tăng 0,97%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,20%. Các nhóm còn lại giá ổn định và biến động nhẹ.

Chỉ số giá bình quân năm 2017 tăng 4,04% so với năm 2016, do tác động của một số yếu tố:

 

- Giá xăng dầu biến động. Tính đến 20/12/2017, giá bán lẻ xăng dầu trong nước đã trải qua 21 kỳ điều chỉnh, trong đó có 9 kỳ giảm và 12 kỳ tăng giá, kéo theo chỉ số giá nhóm giao thông năm 2017 tăng 6,39% so với năm 2016;

- Việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế 02 đợt theo Thông tư liên tịch của Bộ Y tế và Bộ Tài chính, Nghị quyết số 26/2017/NQ-HĐND ngày 17/7/2017 của HĐND cùng Công văn số 1624/UBND-VX3 ngày 11/8/2017 của UBND tỉnh về việc quy định mức giá dịch vụ khám bệnh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày 01/10/2017 là nguyên nhân chính dẫn đến chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế năm 2017 tăng 71,64% so cùng kỳ;

- Chỉ số giá của nhóm giáo dục tăng 11,56% do thực hiện theo lộ trình Nghị định 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021;

- Giá thép tăng cao trong quý I và quý III do khan hiến nguồn cung nguyên liệu; giá gas bình quân năm 2017 tăng 38.892 đồng/bình 12kg so với bình quân năm 2016, nên chỉ số giá nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng cả năm tăng 2,70% so với năm 2016...

Bên cạnh đó, giá thực phẩm giảm, nhất là lợn hơi giảm sâu và giữ ở mức thấp trong thời gian dài, người chăn nuôi lợn gặp nhiều khó khăn... Tính chung cả năm 2017, chỉ số giá bình quân thực phẩm giảm 5,63%, kéo theo ăn uống ngoài gia đình giảm 1,34% so với năm 2016.

Giá cả một số nhóm hàng còn lại tương đối ổn định.

4. Đầu tư, xây dựng

a. Tình hình thực hiện các nguồn vốn đầu tư

Thực hiện kế hoạch đầu tư công năm 2017 và xây dựng kế hoạch đầu tư công năm 2018, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện như: Ban hành Chỉ thị số 09/CT-UBND về đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư công năm 2017; Ban hành Quyết định số 08/2017/QĐ-UBND quy định trình tự, thủ tục các dự án đầu tư công trên địa bàn với thời gian thực hiện thủ tục rút ngắn từ 30-40% theo quy định; Chỉ đạo các cấp các ngành đẩy mạnh các biện pháp xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản; Kịp thời chỉ đạo điều chỉnh kế hoạch đầu tư công nhằm phù hợp với tình hình thu ngân sách năm 2017; Chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn theo Nghị quyết 70/NQ-CP của Chính phủ; Hướng dẫn triển khai cơ chế đặc thù trong quản lý xây dựng đối với một số dự án thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020; Hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện dự án sử dụng toàn bộ nguồn vốn sự nghiệp thuộc ngân sách tỉnh... Kết quả, năm 2017 nhiều dự án lớn, dự án trọng điểm đã rút ngắn được thời gian chuẩn bị đầu tư, sớm hoàn thành thủ tục để khởi công. Ước cả năm 2017, tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh đạt 28.429 tỷ đồng, tăng 6,93% so với cùng kỳ. Trong đó, vốn nhà nước 7.418 tỷ đồng, tăng 17,06%; vốn ngoài nhà nước 13.634 tỷ đồng, tăng 5,14%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 7.377 tỷ đồng, tăng 1,31% so với năm 2016. Trong tổng số, vốn đầu tư xây dựng cơ bản vẫn chiếm tỷ trọng cao, đạt 19.434 tỷ, chiếm 68,36% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng 8,75% so với năm trước.

b. Công tác xúc tiến và thu hút đầu tư

Năm 2017, UBND tỉnh đã có nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm cụ thể hóa các Nghị quyết số 19, 35 của Chính phủ và Nghị quyết số 01 của Tỉnh ủy. Trong đó, tiếp tục duy trì đường dây nóng để tiếp nhận, giải quyết các phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân; hàng tuần lãnh đạo tỉnh, các sở, ban, ngành tổ chức gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp; chỉ đạo các sở, ngành, cấp huyện tiếp tục giảm thiểu thời gian thực hiện các thủ tục hành chính; tổ chức các cuộc xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Nga, Italia, Đức, Ấn Độ, Nam Phi, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất...; đồng thời, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã tiếp và làm việc với một số nhà đầu tư trong và ngoài nước đến tìm hiểu môi trường đầu tư tại tỉnh... Ước năm 2017, toàn tỉnh thu hút mới được 78 dự án gồm 38 dự án DDI và 40 dự án FDI. Trong đó, vốn DDI thu hút mới là 2,4 nghìn tỷ đồng, đạt 40% kế hoạch và bằng 11,84% so với năm 2016; vốn FDI thu hút mới là 85 triệu USD, đạt 38,64% kế hoạch và bằng 30,9% so với năm 2016. Như vậy, số vốn đăng ký mới của các dự án FDI và DDI năm 2017 đều đạt thấp so kế hoạch và so năm 2016.

Trong năm đã có 10 dự án DDI điều chỉnh tăng vốn với số vốn tăng thêm là 1,3 nghìn tỷ đồng và 40 dự án FDI điều chỉnh tăng vốn với số vốn tăng thêm là 290 triệu USD. Đồng thời, đã có thêm 55 dự án đi vào hoạt động gồm 30 dự án DDI và 25 dự án FDI.

 Luỹ kế đến hết năm 2017, tỉnh có  939  dự án đầu tư còn hiệu lực gồm: 260 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký là 3,7 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt 68,2 % tổng vốn đầu tư đăng ký; 679 dự án DDI với tổng số vốn đăng ký là  67.516 tỷ đồng, vốn thực hiện ước đạt 33,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tổng số dự án đang hoạt động là 536 dự án gồm 206 dự án FDI và 330 dự án DDI.

c. Thu hút các dự án ODA

Nhằm đảm bảo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, thời gian qua, Vĩnh Phúc đã vận động thu hút được nhiều dự án ODA. Năm 2017, tỉnh đang thực hiện 4 chương trình, dự án ODA là Dự án cải thiện môi trường đầu tư, Dự án Quản lý nguồn nước và ngập lụt Vĩnh Phúc (vốn WB), Chương trình Phát triển các đô thị xanh (ADB), Dự án Cầu Đầm Vạc (OFID). Trong đó, Dự án cải thiện môi trường đầu tư đã cơ bản hoàn thành, đang làm các thủ tục quyết toán toàn dự án, các dự án còn lại được thực hiện đúng tiến độ và hiệp định vay đã ký giữa Chính phủ và nhà tài trợ. Ước giải ngân năm 2017 đạt 464 tỷ đồng, trong đó vốn đối ứng 54 tỷ đồng, vốn ODA 410 tỷ đồng.

5. Tình hình phát triển doanh nghiệp

Thực hiện Nghị Quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ và Chương tình hành động số 4324/CTHĐ-UBND của UBND tỉnh. Môi trường đầu tư kinh doanh của tỉnh tiếp tục được cải thiện. Đã có 14 thủ tục hành chính tại 4 sở, ngành, UBND cấp huyện được đơn giản hoá; Lãnh đạo UBND tỉnh duy trì các buổi gặp gỡ doanh nhân vào chiều thứ Sáu hàng tuần để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của từng doanh nghiệp... Do vậy, năm 2017 số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cao cả về số lượng và vốn đăng ký so với năm 2016, ước cả năm có 1.100 doanh nghiệp thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký 7,0 nghìn tỷ đồng, tăng 33% về số doanh nghiệp và tăng 44% về vốn đăng ký; bên cạnh đó trong năm có 94 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh (giảm 3% so với năm 2016) và có 91 doanh nghiệp hoạt động trở lại sau thời gian tạm ngừng kinh doanh (tăng 4% so với năm 2016). Luỹ kế đến hết năm 2017, tổng số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh là 8.450 doanh nghiệp với số vốn đăng ký 70 nghìn tỷ đồng, trong đó có 5.915 doanh nghiệp thực tế hoạt động (tương đương 70% doanh nghiệp đăng ký) và 2.535 doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh có thời hạn chờ giải thể do hạn chế về năng lực tài chính, năng lực quản trị, chưa có mặt bằng sản xuất và chưa tìm kiếm được thị trường.

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

a. Sản xuất nông nghiệp

* Trồng trọt:

- Cây hàng năm: Diện tích gieo trồng cây hàng năm năm 2017 toàn tỉnh đạt 93.563 ha, giảm 2,47% so với năm trước. Trong đó, diện tích gieo trồng lúa cả năm đạt 57.886 ha, giảm 0,85%; ngô đạt 15.129 ha, giảm 5,49%; diện tích nhóm cây lấy củ có chất bột 3.969 ha, giảm 6,19%; diện tích nhóm cây có hạt chứa dầu 3.948 ha, giảm 18,89%; diện tích rau các loại 9.310 ha, tăng 3,25%... Nguyên nhân giảm diện tích gieo trồng ở một số loại cây là do chi phí sản xuất nông nghiệp cao, mất nhiều công lao động, hiệu quả kinh tế thấp nên bà con bỏ đất trống không gieo trồng và chuyển sang làm các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ cho thu nhập cao hơn.

 Sơ bộ năng suất, sản lượng một số cây trồng chính như sau: Năng suất lúa đạt 55,30 tạ/ha, tăng 9,64%, sản lượng đạt 320.110 tấn, tăng 8,71% so với năm 2016; ngô đạt 43,30 tạ/ha, tăng 4,04%, sản lượng đạt 65.508 tấn, giảm 1,67%; khoai lang đạt 101,44 tạ/ha, tăng 5,29%, sản lượng đạt 21.578 tấn, tăng 2,0%; lạc đạt 19,18 tạ/ha, tăng 3,76%, sản lượng đạt 4.647 tấn, giảm 10,68%; đậu tương đạt 19,52 tạ/ha, tăng 4,87%, sản lượng đạt 2.887 tấn, giảm 21,57%; rau các loại đạt 208,43 tạ/ha, tăng 8,19%, sản lượng đạt 194.046 tấn, tăng 11,70%... Năng suất của các loại cây trồng đều tăng hơn so với cùng kỳ chủ yếu là do năm 2016 cả vụ xuân và vụ mùa đều chịu ảnh hưởng của mưa lớn và bão nên nhiều diện tích lúa và hoa màu bị ngập và mất trắng.

- Cây lâu năm: Vĩnh Phúc là một tỉnh có diện tích đất trồng cây lâu năm không nhiều và chủ yếu vẫn là nhóm cây ăn quả. Do không có nhiều các loại cây có giá trị kinh tế cao, đầu ra của sản phẩm thiếu ổn định, việc đầu tư chăm sóc chưa được quan tâm đúng mức và còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, sâu bệnh nên năng suất, sản lượng chưa cao, giá trị sản lượng cây lâu năm còn thấp. Tuy nhiên, với việc dần chuyển đổi sang những loại cây trồng có giá trị kinh tế cao cùng với sự quan tâm, phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành trong việc quy hoạch, tìm kiếm thị trường, bảo vệ thương hiệu với các loại cây đặc sản đang mở ra hướng đi mới cho người dân trong thời gian tới.

Tổng diện tích các loại cây lâu năm hiện có 8.387 ha, tăng 0,50% so với năm 2016. Trong đó, diện tích cây ăn quả là 7.846 ha chiếm 93,54% tổng diện tích các loại cây lâu năm. Cây ăn quả năm nay nhìn chung ổn định, một số diện tích cây trồng thoái hoá, kém chất lượng, năng suất thấp đã được trồng mới bổ sung thay thế bằng các loại cây khác hiệu quả hơn như: Vải 1.981ha, chuối 1.846 ha, nhãn 769 ha, xoài 755 ha...

Một số giống cây ăn quả mới sau thời gian trồng thử nghiệm đã bước đầu đem lại hiệu quả và trở thành cây trồng đem lại nguồn thu nhập ổn định cho bà con nông dân như: Thanh long khoảng 173 ha, tăng 4,99% được trồng chủ yếu ở các huyện Lập Thạch, Phúc Yên và Tam Đảo; cùng với thanh long, na cũng đang trở thành loại cây ăn quả mang lại hiệu quả kinh tế cao, diện tích trồng đạt 318 ha, chủ yếu ở các huyện Tam Đảo, Lập Thạch, Phúc Yên và Sông Lô.

* Chăn nuôi: Tình hình sản xuất chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc phát triển tương đối ổn định, công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được tích cực triển khai, kiểm soát tốt nên không xảy ra các dịch bệnh lớn; tỉnh tiếp tục có những cơ chế hỗ trợ cho nông dân, thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020 theo Nghị quyết của HĐND tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy cho sản xuất chăn nuôi trên địa bàn phát triển. Tuy vậy, việc phát triển đàn lợn còn nhiều khó khăn do từ đầu năm đến nay giá lợn hơi vẫn còn quá thấp, hiện dao động từ 27.000 đồng - 30.000 đồng/kg, người chăn nuôi vẫn bị thua lỗ nên chưa thật sự yên tâm đầu tư mở rộng quy mô sản xuất.

Số lượng đàn gia súc, gia cầm tại thời điểm 01/10/2017 như sau:

- Đàn trâu tại thời điểm 01/10/2017 là 18.904 con, giảm 5,83% so với cùng thời điểm năm trước. Số lượng đàn trâu giảm là do cơ giới hóa trong nông nghiệp ngày càng nhiều nên đàn trâu nuôi lấy sức cày kéo giảm; bên cạnh đó, việc nuôi trâu thịt mang lại lợi nhuận không cao.    

- Đàn bò có 116.501 con, tăng 3,63%. Trong đó có 9.337 con bò sữa, tăng 7,33% so với cùng kỳ và được nuôi nhiều ở các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Lập Thạch và Tam Đảo.

Đàn lợn của tất cả các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh có 643.263 con, giảm 6,55%. Do trong năm giá lợn hơi xuống quá thấp, người chăn nuôi không có lãi nên việc tái đàn gặp nhiều khó khăn, nhất là các hộ nuôi nhỏ lẻ. Tuy nhiên, đối với các trang trại, các hộ nuôi với quy mô lớn vẫn được duy trì tương đối ổn định và đặc biệt là có một số doanh nghiệp cũng tham gia vào sản xuất chăn nuôi đã tạo điều kiện để một số hộ nuôi gia công...

- Tổng đàn gia cầm của tất cả các thành phần kinh tế hiện có 9.924 nghìn con, tăng 1,77% so với cùng thời điểm năm 2016. Trong đó, đàn gà 8.615 nghìn con, tăng 2,51%; vịt, ngan, ngỗng 1.309 nghìn con, giảm 2,85%.

b. Sản xuất lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng mới tập trung năm 2017 sơ bộ đạt 658 ha, bằng 109,65% kế hoạch năm và tăng 11,36% so với năm trước. Bao gồm, 606 ha rừng sản xuất, 30 ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và diện tích trồng cây dược liệu là 22 ha.

Cùng với việc trồng mới, công tác chăm sóc và bảo vệ rừng tiếp tục được quan tâm thực hiện. Năm 2017, diện tích rừng được chăm sóc và khoanh nuôi tái sinh là 480 ha; đồng thời, các chủ rừng thường xuyên bảo vệ 9.759 ha diện tích rừng hiện có. Chủ trương trồng rừng thay thế của tỉnh đã được triển khai; cho đến nay, một số địa phương đã trồng thay thế được hơn 20 ha rừng đặc dụng để nhường đất cho các công trình, dự án quan trọng của tỉnh. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán trong năm là 800 nghìn cây, tăng 116 nghìn cây so với năm 2016.

Công tác phòng chống cháy rừng luôn được các cấp, các ngành chức năng chỉ đạo thực hiện, nguy cơ cháy rừng được cảnh báo thường xuyên. Tuy  nhiên, do thời tiết hanh khô trong những tháng đầu năm nên từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 5 vụ cháy rừng, tăng 1 vụ so với năm trước, diện tích cháy là 38,71 ha.

c. Sản xuất thuỷ sản

Trong năm, giá thủy sản trên thị trường ổn định, chi phí trong nuôi trồng không cao nên bà con chủ động tích cực đầu tư, thâm canh tăng năng suất, các loại cá giống mới có năng suất, chất lượng cao như cá chép lai 2 máu, 3 máu, cá rô phi đơn tính... được đưa vào nuôi ngày càng nhiều đem lại hiệu quả kinh tế cao. Mô hình nuôi cá lồng trên sông được một số cơ sở đầu tư và phát triển, toàn tỉnh hiện có 19 cơ sở nuôi lồng bè với 93 lồng nuôi, thể tích đạt 6.980 m3 tập trung ở 2 huyện Sông Lô và Lập Thạch.

Tại thời điểm 01/11/2017 diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh là 6.915,6 ha, tăng 0,7% so với năm trước. Trong đó, diện tích nuôi cá 6.757,6 ha (chiếm 97,7% diện tích), diện tích nuôi trồng thuỷ sản khác 2,6 ha, diện tích ươm giống 155,6 ha. Sản lượng thủy sản năm 2017 ước đạt 20.183 tấn, tăng 3,99% so với năm 2016. Trong đó, sản lượng nuôi trồng đạt 18.114 tấn, tăng 4,8%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 2.069 tấn, giảm 2,60% so với năm 2016.

7. Sản xuất công nghiệp

a. Chỉ số sản xuất công nghiệp

Dự kiến cả năm 2017, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 10,87% so với năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 6,03%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,93%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 15,62%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải giảm 1,59%.

Trong năm, ngành có mức tăng trưởng cao nhất là ngành sản xuất linh kiện điện tử, với mức tăng 62,11% so với năm 2016. Sự phát triển của công nghệ thông tin trong những năm gần đây cùng với những chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt đã thu hút một số lượng lớn doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này. Trong năm, các doanh nghiệp trong ngành tiếp tục phát triển sản xuất cả về quy mô và giá trị, trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh, góp phần quan trọng vào tăng trưởng của ngành công nghiệp cũng như tăng trưởng chung của tỉnh, lượng lao động trong ngành này ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong toàn nền kinh tế; tiếp đến là ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt tăng 15,62; ngành sản xuất xe máy đã phục hồi do liên tục đưa ra thị trường những mẫu xe được cải tiến về mẫu mã, kiểu dáng, với nhiều tính năng tiện lợi làm hài lòng khách hàng; bên cạnh đó, việc xuất khẩu xe sang một số nước như Nhật, Mỹ, Myanma... được đẩy mạnh nên chỉ số sản xuất các tháng liên tục tăng so với tháng trước và cùng kỳ, đặc biệt là từ tháng Bảy trở lại đây. Trong đó, tháng Bảy tăng 8,55%, tháng Tám tăng 12,21%, tháng Chín tăng 14,88%..., đến tháng Mười hai tăng 12,74% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2017, chỉ số sản xuất của ngành này tăng 8,11% so với năm trước, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của tỉnh.

 Ngành công nghiệp có chỉ số giảm mạnh nhất trong năm là ngành sản xuất xe có động cơ do ảnh hưởng chủ yếu từ thay đổi chính sách thuế nhập khẩu linh kiện và xe ô tô nguyên chiếc từ các nước ASEAN. Chỉ số sản xuất của hầu hết các tháng trong năm đều giảm so với cùng kỳ, tính chung cả năm giảm tới 19,16% so với năm 2016; tiếp đến là ngành dệt giảm 10,02%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm giảm 2,53%, chủ yếu giảm ở ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi do sản phẩm đầu ra của ngành chăn nuôi lợn gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ.  

Các ngành công nghiệp còn lại đều ổn định và tăng trưởng so với năm 2016.

b. Sản lượng sản phẩm công nghiệp chủ yếu

Dự kiến cả năm 2017, các doanh nghiệp trên địa bàn dản xuất được 215.702 tấn thức ăn gia súc, giảm 2,53%; 5.206 ngàn đôi giày thể thao, tăng 3,94%; 124.067 ngàn m2 gạch ốp lát, tăng 4,19%; 17.177 máy điều hòa không khí, giảm 3,65%; 51.820 xe ô tô các loại, giảm 19,16%; 2.085.371 xe máy các loại, tăng 8,11%; 4.535 triệu kw.h điện thương phẩm, tăng 15,62%; 19.740 ngàn m­3 nước máy thương phẩm, tăng 10,08% so với năm 2016...

c. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tháng Mười hai tăng 0,61% so với tháng trước và tăng 12,81% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm, chỉ số sử dụng lao động tăng 9,75% so với năm 2016. Theo ngành công nghiệp cấp I, ngoài ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số sử dụng lao động trong năm tăng 10,23% so với năm trước, các ngành còn đều giảm. Theo thành phần kinh tế, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp nhà nước giảm 7,42%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 18,11%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,10% so năm 2016.

8. Thương mại, dịch vụ

Tình hình kinh doanh thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh năm 2017 duy trì ổn định và phát triển. Số lượng các đơn vị tham gia kinh doanh thương mại, dịch vụ tăng; nhiều đơn vị, cơ sở mở rộng ngành nghề, đa dạng hóa các mặt hàng và phương thức kinh doanh nên kết quả lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ tăng khá so cùng kỳ, đáp ứng tốt cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2017 ước đạt 41.144,8 tỷ đồng, tăng 13,41% so với năm 2016. Trong đó, kinh tế nhà nư­ớc đạt 256,1 tỷ đồng, tăng 29,91% so cùng kỳ; kinh tế cá thể 21.370,5 tỷ đồng, tăng 17,35%; kinh tế tư nhân 16.805,9 tỷ đồng, tăng 10,47%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.645,9 tỷ đồng, tăng 1,49% so với năm 2016. Phân theo nhóm ngành kinh tế, trong  năm ngành thương nghiệp bán lẻ thực hiện 35.492,2 tỷ đồng, tăng 13,97%; kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 3.425,3 tỷ đồng, tăng 10,03% ; các ngành dịch vụ phục vụ tiêu dùng khác thực hiện 2.227,3 tỷ đồng, tăng 9,94% so với năm 2016.

Kinh doanh vận tải đáp ứng tốt nhu cầu cho các hoạt động sản xuất và đi lại của nhân dân. Tổng khối l­ượng hàng hoá vận chuyển trên địa bàn tỉnh năm 2017 ước đạt 28.862 ngàn tấn, luân chuyển 2.020,5 triệu tấn.km, tăng 4,95% về tấn và tăng 3% về tấn.km so với năm 2016. Khối l­ượng hành khách vận chuyển năm 2017 ước đạt 24.089 ngàn người, luân chuyển 1.831 triệu người km, tăng 5,18% về người và tăng 6,04% về người.km so với năm trước. Tổng doanh thu vận tải năm 2017 ước đạt 3.741 tỷ đồng, tăng 9,41% so cùng kỳ. Trong đó, vận tải hàng hóa đạt 2.760 tỷ đồng, tăng 7,20%; vận tải hành khách đạt 893 tỷ đồng, tăng 15,93% so với năm 2016….

II. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Lao động, việc làm

Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động tiếp tục được UBND tỉnh tập trung chỉ đạo. Tính đến tháng 12/2017, Trung tâm giới thiệu việc làm làm tỉnh Vĩnh Phúc đã tổ chức 48 phiên giao dịch việc làm, đã tuyển tại sàn 3.860 lao động... Ước cả năm toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 25,3 nghìn lao động, vượt 10% so với kế hoạch đề ra; trong đó xuất khẩu lao động 1.976  người đạt 98,8% kế hoạch.

Trong năm, các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh tiếp tục được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành, nâng cao chất lượng dạy và học; gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm thông qua việc ký kết các hợp đồng cung ứng lao động với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh; tích cực đưa giáo viên, học sinh, sinh viên đến doanh nghiệp để thực tập, nâng cao trình độ tay nghề, làm quen với tác phong lao động công nghiệp; tăng cường các hoạt động hướng nghiệp, tư vấn, giới thiệu việc làm cho học sinh, sinh viên.

Toàn tỉnh hiện có 41 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (giảm 8 cơ sở so với năm trước do thực hiện sát nhập một số trung tâm dạy nghề). Tính đến tháng 11/2017, các cơ sở đào tạo nghề tổ chức tuyển mới 22.717 học sinh, sinh viên học nghề; trong đó, cao đẳng nghề 879 người, trung cấp nghề 4.383 người và sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng là 17.455 người.

2. Công tác an sinh xã hội

Công tác chỉ đạo và triển khai thực hiện các chế độ, chính sách cho người nghèo được triển khai đồng bộ và kịp thời trên địa bàn tỉnh. Năm 2017, các cơ quan chức năng tiếp tục triển khai các chương trình thăm hỏi, tặng quà cho các hộ nghèo nhân các dịp lễ, tết và triển khai hỗ trợ tiền điện cho các hộ gia đình thuộc diện được trợ giúp; chính sách cho vay và hỗ trợ lãi suất cho vay đối với hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.... tiếp tục được đẩy mạnh. Theo báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2017 toàn tỉnh có 11.901 hộ nghèo hưởng chính sách (hộ nghèo được xét duyệt năm 2016), tỷ lệ hộ nghèo là 3,93%; số hộ cận nghèo có 12.106 hộ, tỷ lệ hộ cận nghèo là 4%.

Năm 2017, trên địa bàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói giáp hạt, thiếu đói do thiên tai và dịch bệnh nguy hại, do đó không tổ chức đoàn cứu trợ xã hội khẩn cấp. Tuy vậy, công tác bảo trợ xã hội luôn được các cấp, các ngành duy trì; tiếp tục công tác tiếp nhận, quản lý, nuôi dưỡng, chăm sóc và phục hồi chức năng cho đối tượng ở Trung tâm Bảo trợ xã hội và Trung tâm Nuôi dưỡng, phục hồi chức năng người tâm thần của tỉnh.

Công tác giải quyết chế độ chính sách đối với người có công trên địa bàn được thực hiện kịp thời, đầy đủ theo quy định của pháp luật. Tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn; tổ chức thực hiện tốt việc thăm hỏi và tặng quà của Chủ tịch nước và của tỉnh tới đối tượng chính sách, người có công nhân dịp lễ, Tết...

3. Giáo dục, đào tạo

Trong năm, ngành giáo dục và đào tạo tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong ngành; thực hiện tốt công tác tuyển sinh và khai giảng năm học mới 2017 - 2018; việc đầu tư, điều chỉnh cơ sở vật chất trường học giữa các cấp học cơ bản phù hợp với nhu cầu thực tế, nhất là đối với bậc học mầm non; công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được đẩy nhanh tiến độ gắn với yêu cầu chuẩn về chất lượng và từng bước đạt chất lượng cao.

Năm học 2016 - 2017, toàn tỉnh có 77 học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia; 1 Huy chương Đồng tại kỳ Olympic Toán quốc tế; 27 học sinh đạt giải trong kỳ thi giải toán trên máy tính cầm tay; 64 huy chương tại kỳ thi giải toán qua internet; 114 huy chương tại cuộc thi Olympic tiếng Anh trên internet; 90 huy chương tại kỳ thi tiếng Anh thông minh, xếp thứ Nhất toàn quốc. Kết quả thi THPT quốc gia năm 2017, Vĩnh Phúc là một trong 6 tỉnh có điểm bình quân các môn cao nhất cả nước; tỷ lệ học sinh lớp 12 tốt nghiệp đạt 98,85%.

Công tác tư vấn hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS được quan tâm và duy trì. Các trường chuyên nghiệp và đào tạo nghề đã đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo đánh giá kết quả học tập của người học gắn với năng lực thực hiện, bước đầu áp dụng chương trình đào tạo đảm bảo tỷ lệ thời lượng dành cho dạy thực hành, thực tập từ 50% đến 70% theo hướng đáp ứng chuẩn đầu ra của học sinh tốt nghiệp, mời doanh nghiệp tham gia xây dựng và đánh giá chương trình đào tạo để đáp ứng nhu cầu thị trường.

4. Y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng

UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành y tế chủ động theo dõi, giám sát thường xuyên các bệnh dịch nhằm phát hiện các trường hợp mắc bệnh sớm nhất, tổ chức cách ly và điều trị kịp thời cho người bệnh; tăng cường hoạt động hỗ trợ chuyên môn và phương pháp nghiệp vụ cho các Trung tâm Y tế tuyến huyện; nhấn mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân các biện pháp phòng, chống bệnh dịch, vận động nhân dân chủ động tiêm phòng các loại vắc xin phòng bệnh, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm. Do đó, trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh xảy ra, chỉ có một số ca bệnh cúm, tiêu chảy, tay chân miệng, sởi, sốt xuất huyết xuất hiện rải rác.

Các chương trình mục tiêu như tiêm chủng mở rộng, chương trình sức khỏe sinh sản, phòng chống suy dinh dưỡng, chương trình phòng chống các bệnh lây nhiễm, các bệnh không lây, bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng, y tế học đường, chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV tiếp tục được duy trì, triển khai có hiệu quả.

Công tác tuyên truyền phổ biến Luật, kiến thức an toàn vệ sinh thực phẩm, tổ chức phối hợp liên ngành trong hoạt động thanh, kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm và dịch vụ ăn uống được thực hiện thường xuyên. Tính đến ngày 30/11/2017, lực lượng chức năng đã thanh kiểm tra 4.352 lượt cơ sở, tỷ lệ cơ sở đạt tiêu chuẩn chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm là 84,4%. Đoàn kiểm tra đã xử lý các cơ sở vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm theo đúng quy định của pháp luật. Đến ngày 07/12/2017, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 04 vụ ngộ độc thực phẩm với 150 người mắc, không có trường hợp tử vong.

5. Hoạt động văn hoá, thể thao

Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hoá thể thao được quan tâm. Nhiều hoạt động văn hoá nghệ thuật, vui chơi giải trí, tổ chức lễ hội truyền thống chào mừng các ngày lễ của đất nước, của tỉnh diễn ra sôi nổi, rộng khắp đúng quy định. Tỉnh đã ký giao ước thi đua cụm, thi đua ngành văn hoá, thể thao và du lịch các tỉnh thuộc Đồng bằng Sông hồng; tổ chức thành công nhiều sự kiện thể thao như: Đại hội thể dục thể thao cấp cơ sở, ngày chạy Olympic, giải vật trẻ toàn quốc và 7 giải thể thao cấp tỉnh; tổ chức liên hoan Ca múa nhạc các nước ASEAN. Cử vận động viên tham gia 40 giải quốc gia và quốc tế, đạt 70 huy chương vàng, 68 huy chương bạc, 103 huy chương đồng, đoạt giải nhất toàn đoàn tại giải Đua thuyền vô dịch trẻ quốc gia năm 2017; đạt 01 Huy chương Bạc bộ môn điền kinh tại Seagame 29....

Hoạt động các cơ quan báo chí, bản tin, trang thông tin điện tử, đài truyền thanh huyện, xã,... trên địa bàn tỉnh đã bám sát định hướng và làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền các chủ đề trọng tâm; xuất bản nhiều ấn phẩm được quan tâm, cải thiện cả về hình thức và nội dung đáp ứng tốt nhiệm vụ chính trị của tỉnh và góp phần nâng cao dân trí đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sinh hoạt văn hoá tinh thần của nhân dân.

6. Tình hình trật tự an ninh, an toàn xã hội, an toàn giao thông

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ổn định. Lực lượng công an đã chủ động nắm, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình tại các địa bàn đang thực hiện các dự án; chủ động triển khai các phương án đảm bảo tuyệt đối các mục tiêu trọng điểm, các đoàn khách và các sự kiện chính trị, xã hội quan trọng diễn ra trên địa bàn tỉnh. Công tác phòng ngừa, tấn công trấn áp tội phạm về tệ nạn xã hội được đẩy mạnh.

Công tác giải toả vi phạm hành lang giao thông, lập lại trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, tăng cường quản lý phương tiện, kiểm soát tải trọng phương tiện vận tải, rà soát, bổ sung lắp đặt hệ thống biển báo; đẩy mạnh tuần tra kiểm soát... Do đó, tình hình tai nạn giao thông năm 2017 giảm cả 3 tiêu chí (số vụ, số người chết và số người bị thương). Tính đến 15/11/2017, trên địa bàn tỉnh xảy ra 40 vụ tai nạn giao thông làm 33 người chết và 44 người bị thương. So với cùng kỳ năm ngoái, giảm 03 vụ tai nạn, giảm 03 người chết và giảm 21 người bị thương.

7. Thiệt hại do thiên tai

Trong kỳ, thời tiết diễn biến bất thường, diễn ra nhiều ngày mưa lớn và sét kèm theo đã làm 02 người chết, 02 người bị thương, một số diện tích lúa và hoa màu bị ảnh hưởng... Các cơ quan chức năng đã tiến hành trợ giúp gia đình có người bị chết, bị thương và đánh giá mức độ thiệt hại về sản xuất để có biện pháp hỗ trợ kịp thời.

8. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

Năm 2017, phong trào “Toàn dân tham gia phòng cháy, chữa cháy” trên địa bàn tỉnh đã phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân về chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy. Nhân dân đã tích cực phối hợp với lực lượng chữa cháy chuyên ngành tham gia chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ. Hiện nay, toàn tỉnh đã xây dựng được  2.100 đội phòng cháy, chữa cháy cơ sở với hơn 21.000 đội viên; 930 đội dân phòng với gần 11.000 đội viên, trang bị tương đối đầy đủ các phương tiện chữa cháy; có 86 mô hình, điển hình tiên tiến về phòng cháy, chữa cháy đã xây dựng được. Theo số liệu báo cáo của Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy tỉnh, từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 27 vụ cháy, ước tính giá trị thiệt hại khoảng 23,7 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cháy, nổ là do chập điện và sơ suất trong sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt.

Công tác bảo vệ môi trường được triển khai và thực hiện tích cực. Trong năm, các ngành chức năng đã triển khai nhiều đề án, phương án và kế hoạch bảo vệ môi trường, xử lý nhanh, có hiệu quả các tình huống ô nhiễm môi trường phát sinh. Hoạt động quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản được các cấp, các ngành tăng cường thanh, kiểm tra, siết chặt quản lý. Tính đến ngày 14/12/2017, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện và xử lý 18 vụ vi phạm môi trường, số tiền xử phạt trên 2,3 tỷ đồng./.

 

luat_sua_doi_ltk

Đang truy cập: 4
Trong ngày: 187
Trong tuần: 1043
Lượt truy cập: 1427203

Xin cho biết ý kiến của bạn về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc?
Tốt
Khá
Trung bình
Kém

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚCChung nhan Tin Nhiem Mang

Địa chỉ: Số 20

Lý Thái Tổ - Phường Đống Đa - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Điện thoại: 0211 3 861 139, Fax: 0211 3 843 841Email: vinhphuc@gso.gov.vn, cuctk@vinhphuc.gov.vn