.::. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, cơ sở hành chính, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn .::. .............................................................................................................................................................................................................. ........................................  

Tình hình KT-XH tỉnh Vĩnh Phúc tháng Sáu và 6 tháng đầu năm 2019 

Sáu tháng đầu năm 2019, tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định và phát triển tốt, lạm phát được kiểm soát, môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Bên cạnh những thuận lợi, tỉnh cũng phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức: sản lượng sản xuất sản phẩm ô tô giảm do thực hiện chính sách giảm thuế khi hội nhập; dịch tả lợn châu Phi lan rộng ảnh hưởng lớn đến ngành chăn nuôi; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn gặp nhiều khó khăn làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư; tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số nơi chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả; việc giải quyết đất dịch vụ, xử lý các vi phạm về đất đai, khoáng sản chưa triệt để…

Trước tình hình đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã quán triệt quan điểm xuyên suốt trong chỉ đạo, điều hành năm 2019 của Chính phủ với phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”. Ngay từ đầu năm, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách và cải thiện môi trường đầu tư; đẩy mạnh cải cách hành chính; lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các cấp, các ngành thường xuyên đối thoại, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân, doanh nghiệp, đồng thời bám sát cơ sở để có những chỉ đạo kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư lớn, trọng điểm... Do đó, kết quả 6 tháng đầu năm 2019, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển tích cực trên hầu hết các lĩnh vực, cụ thể như sau: 

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Về tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng năm 2019 theo giá so sánh 2010 đạt 41.746 tỷ đồng, tăng 8,52% so cùng kỳ năm 2018, đạt mức tăng cao nhất từ năm 2015 trở lại đây. Trong đó, khu vực nông, lâm thủy sản tăng 1,41%; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 12,73%, khu vực dịch vụ tăng 6,79%.

- Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng năm 2019 đạt 2.679 tỷ đồng, tăng 1,41%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,097 điểm %. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 1,19%, ngành lâm nghiệp tăng 2,39%, ngành thủy sản tăng 5% so với cùng kỳ.

Trong nông nghiệp, mặc dù diện tích gieo trồng giảm, nhưng cơ cấu cây trồng trên địa bàn tỉnh đã có sự chuyển biến rõ nét, tỷ lệ giống lúa chất lượng đạt trên 70% tổng diện tích gieo trồng lúa toàn tỉnh, các cây trồng có giá trị kinh tế cao (bí xanh, bí đỏ, cà chua, dưa chuột, rau ăn lá…) được phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; bên cạnh đó, thời tiết thuận lợi, nhìn chung năng suất hầu hết các loại cây trồng đều tăng nên ngành trồng trọt không có biến động so với cùng kỳ. Sản xuất chăn nuôi gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) xuất hiện trên địa bàn từ cuối tháng 3 năm 2019 nên tổng đàn lợn cũng như sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm giảm 1,69%. Các sản phẩm chăn nuôi chủ yếu còn lại đều tăng so với cùng kỳ như: Sữa tươi tăng 23,09%; thịt gia cầm tăng 5,14%; trứng gia cầm tăng 5,78% ... do đó tăng trưởng của ngành chăn nuôi vẫn đạt 2,23%.

- Khu vực công nghiệp - xây dựng: Với tiềm năng và lợi thế về phát triển công nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc luôn xác định lấy công nghiệp là khâu đột phá làm động lực tăng trưởng kinh tế, góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặc dù còn nhiều khó khăn ở một số ngành, lĩnh vực, nhưng với sự chỉ đạo, điều hành sát sao, tập trung tháo gỡ các khó khăn vướng mắc của các cấp, các ngành, cùng sự nỗ lực của doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh sản xuất, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ, ngành công nghiệp của tỉnh tiếp tục đạt mức tăng trưởng khá. Tổng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp, xây dựng 6 tháng năm đạt 21.632 tỷ đồng, tăng 12,73% so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh 6,35 điểm %; riêng ngành công nghiệp tăng 12,95%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 5,95 điểm %.

Trong ba ngành công nghiệp lớn của tỉnh, trong khi ngành sản xuất ô tô, xe máy vẫn gặp nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ do phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu, tăng trưởng 6 tháng giảm lần lượt 2,93% và 4,14%, làm giảm tăng trưởng chung của tỉnh 0,88 điểm %, thì ngành sản xuất linh kiện điện tử vẫn đạt mức tăng cao với 42,89% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung tới 5,71 điểm % trong tổng số tăng chung của tỉnh là 8,52 điểm %. Như vậy, với tỷ trọng trong giá trị tăng thêm chiếm tới 36,62%, dẫn đầu toàn ngành công nghiệp của tỉnh, sự phát triển của ngành sản xuất linh kiện điện tử đã bù đắp khá tốt cho mức sụt giảm tăng trưởng của ngành ô tô và xe máy, giúp duy trì sự tăng trưởng của ngành công nghiệp cũng như tăng trưởng chung của tỉnh.

Các ngành công nghiệp còn lại có mức tăng trưởng bình quân đạt 11,78% so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,12 điểm %.

- Khu vực dịch vụ: Các ngành dịch vụ tiếp tục ổn định và phát triển. Tổng giá trị tăng thêm 6 tháng đầu năm đạt 8.004 tỷ đồng, tăng 6,79% so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,32 điểm %.

1_ktxh6t2019

2. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

2.1. Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước

Công tác thu ngân sách nhà nước được tăng cường, ngành Thuế đã tổ chức chỉ đạo thu một cách quyết liệt, hiệu quả ngay từ những ngày đầu năm; đôn đốc quyết toán các khoản thu ngân sách nhà nước trên địa bàn như: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản thu từ đất, thu phí, lệ phí...; thường xuyên tuyên truyền và triển khai các biện pháp tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc tại cơ sở để công tác thu có hiệu quả... Ước tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng đạt 15.653 tỷ đồng, đạt 55% dự toán và bằng 108% so cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa đạt 13.730 tỷ đồng, đạt 57% dự toán và bằng 111% so cùng kỳ; thu từ Hải quan ước đạt 1.864 tỷ đồng, đạt 52% dự toán và bằng 87% so cùng kỳ.

Công tác quản lý chi ngân sách của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2019 tiếp tục được tăng cường kiểm soát chặt chẽ, quản lý chi theo dự toán, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tổng chi ngân sách địa phương 6 tháng đầu năm ước đạt 6.167 tỷ đồng, đạt 37% dự toán và bằng 105% so cùng kỳ. Trong đó, chi thường xuyên dự kiến đạt 3.942 tỷ đồng, đạt 42% dự toán và bằng 103% so cùng kỳ.

2.2. Hoạt động ngân hàng, tín dụng

Sáu tháng đầu năm, ngành Ngân hàng tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các cơ chế chính sách của Nhà nước, các giải pháp chỉ đạo điều hành của Ngân hàng nhà nước và của tỉnh đến các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Trong đó, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân. Đồng thời, duy trì chấp hành nghiêm túc các quy định về lãi suất đối với các tổ chức tín dụng và các ngân hàng trên địa bàn. Theo đó, mức lãi suất huy động trên địa bàn phổ biến ở mức 4,5-7,3%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên. Lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-9%/năm; các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-10,5%/năm.

Nguồn vốn huy động trên địa bàn tiếp tục tăng trưởng cao so với thời điểm cuối năm 2018, cho thấy hoạt động ngân hàng trên địa bàn tiếp tục tạo được niềm tin cho người dân và doanh nghiệp góp phần đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Dự kiến đến cuối tháng Sáu, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 75.850 tỷ đồng, tăng 9,91% so với cuối năm 2018. Trong đó, tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 31.606 tỷ đồng, tăng 11,89%; tiền gửi tiết kiệm 43.489 tỷ đồng, tăng 8,63%; phát hành giấy tờ có giá là 755 tỷ đồng, tăng 3% so với cuối năm 2018. Tổng dư nợ cho vay đến cuối tháng Sáu ước đạt 71.280 tỷ đồng, tăng 5,98% so với cuối năm 2018. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 45.800 tỷ đồng, tăng 7,4% so với cuối năm 2018, chiếm 64,25% tổng dư nợ; dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 25.480 tỷ đồng, tăng 3,51% so với cuối năm 2018 và chiếm 35,75% tổng dư nợ.

Cơ cấu tín dụng tăng trưởng hợp lý, phần lớn là cho vay các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển (chiếm tỷ lệ 85,8 % tổng dư nợ); cho vay lĩnh vực phi sản xuất (chiếm tỷ lệ 10,9% tổng dư nợ). Nợ xấu đến thời điểm 30/6/2019 ước là 738 tỷ đồng, chiếm tỉ lệ 1,04% trên tổng dư nợ.

2.3. Bảo hiểm

Công tác bảo hiểm tiếp tục được các ngành, các địa phương triển khai rộng khắp nhằm đảm bảo phục vụ tốt nhất cho các tầng lớp nhân dân và người lao động. Ước tính 6 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh có 997.938 người tham gia đóng bảo hiểm các loại. Trong đó, Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc là 193.628 người, BHXH tự nguyện 3.664  người, bảo hiểm thất nghiệp 180.187 người, bảo hiểm y tế (BHYT) là 994.274 người. So với mục tiêu của Nghị quyết số 21-NQ/TW: tỷ lệ bao phủ BHXH đạt 30,6% lực lượng lao động, bảo hiểm thất nghiệp đạt 28% lực lượng lao động và tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 91,24% dân số.

Tổng số tiền thu bảo hiểm các loại đến 30/6/2019 ước thực hiện 2.247,6 tỷ, đạt 50,2% so với kế hoạch giao và tăng 301,5 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2018. Công tác cấp sổ, thẻ bảo hiểm các loại được phối hợp chặt chẽ giữa các ngành có liên quan và theo đúng quy trình. Công tác chi trả, nhất là trả lương hưu và trợ cấp BHXH được thực hiện đồng bộ, nhanh gọn và an toàn đến tận tay đối tượng. Sáu tháng đầu năm, đã giải quyết các chế độ BHXH kịp thời, đúng quy định cho các đối tượng thụ hưởng chế độ BHXH với tổng số tiền là 329,1 tỷ đồng. 

3. Chỉ số giá

3.1. Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Sáu giảm 0,18% so với tháng trước, tăng 0,19% so với cùng tháng năm trước và tăng 0,69% so tháng 12 năm trước. Bình quân 6 tháng, CPI tăng 1,32% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng thấp hơn khá nhiều so với mức tăng của 6 tháng đầu năm 2018 (6 tháng đầu năm 2018 tăng 4,23%) và tăng khá đều ở các nhóm hàng: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,90%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,72%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,12%; nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 1,87%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,25%; giáo dục tăng 4,17%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,14%…

Trong tháng Sáu, có 4/11 nhóm hàng ghi nhận mức chỉ số giảm so với tháng trước là: nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,32% do mặt hàng gas giảm 9,08%, giá dầu hỏa giảm 3,30%; thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,37% chủ yếu ở mặt hàng bình nước nóng, nồi cơm điện, bếp ga và các sản phẩm giường, tủ, bàn ghế do các cửa hàng, đại lý, siêu thị có một số chính sách giảm giá để kích thích cầu tiêu dùng; nhóm giao thông giảm 1,96% chủ yếu từ nhóm nhiên liệu giảm 3,76% so với tháng trước do có sự điều chỉnh giảm giá vào hồi 15h ngày 17/6/2019 của tập đoàn xăng dầu Việt Nam đã góp phần vào mức giảm chung của nhóm; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,25% so với tháng trước chủ yếu ở mặt hàng hoa tươi giảm 4,06% và tivi màu LCD 32 inch giảm 2,14% so với tháng trước.

 Trong tháng, có 5 nhóm hàng có chỉ số tăng là: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,17% do nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 1,28%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,13% chủ yếu ở mặt hàng bia các lại tăng 1,78% so với tháng trước, giá thuốc là tăng 2,27%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,02% chủ yếu là các dịch vụ giặt là quần áo, giày dép tăng; nhóm giáo dục tăng 0,27% chủ yếu ở nhóm đồ dùng học tập và văn phòng tăng 1,64% so với tháng trước. Thời điểm này người tiêu dùng đã bắt đầu tìm mua sách giáo khoa cho năm học mới, giá các loại sách giáo khoa trọn bộ lớp 4 và lớp 10 tăng lần lượt từ 7,27% và 6,98% đã làm cho chỉ số chung của nhóm tăng, đồ dùng và dịch vụ khác tăng 0,03%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,03%.

Các nhóm còn lại giá tương đối ổn định.

3.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng trên địa bàn tỉnh tháng Sáu tăng 1,54% so với tháng trước, giá bán bình quân ở mức 3.618 nghìn đồng/chỉ. Giá Đô la Mỹ trên thị trường tự do tăng 0,46% so với tháng trước, giá bán bình quân phổ biến là 22.710 đồng/USD. Bình quân 6 tháng đầu năm, chỉ số giá vàng giảm 0,27% trong khi chỉ số giá Đô la Mỹ tăng 3,48% so với cùng kỳ năm 2018.

4. Đầu tư và xây dựng

Sáu tháng đầu năm 2019, hoạt động đầu tư, xây dựng trên địa bàn tăng trưởng khá. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được tăng cường; các thành phần kinh tế trên địa bàn tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đóng góp không nhỏ cho sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

Kết quả thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong quý II năm 2019 ước đạt 7.810,71 tỷ đồng, tăng 24,75 % so với quý trước và tăng 1,09% so với cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2019, Vốn đầu tư thực hiện ước đạt 14.071,43 tỷ đồng tăng 6,97% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản vẫn chiếm tỷ trọng cao, đạt 8.869,40 tỷ, chiếm 63,03% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

2_ktxh6t2019

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 6 tháng 2019 đạt 2.648,19 tỷ đồng, tăng 3,47% so với cùng kỳ năm 2018 và bằng 42,49% tổng vốn kế hoạch cả năm. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công vẫn còn tồn tại, chưa được giải quyết dứt điểm như: Vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng; thủ tục điều chỉnh hạng mục, điều chỉnh thiết kế, tổng mức đầu tư dự án; năng lực của một số nhà thầu còn chưa đảm bảo…. Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành công tác đầu tư xây dựng, đồng thời yêu cầu các ngành chức năng, các chủ đầu tư thường xuyên kiểm tra, giám sát và đôn đốc các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công. Nguồn vốn đầu tư công thuộc kế hoạch năm 2019 được bố trí đảm bảo cho các dự án thực hiện, không có tình trạng thi công vượt kế hoạch vốn, không gây nợ đọng trong xây dựng cơ bản; nhiều dự án, công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả.

Khu vực kinh tế tư nhân, trang trại và kinh tế hộ dân cư đang ngày càng đóng góp tỷ trọng vốn lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn. Góp phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh và có vai trò to lớn trong thu hút, giải quyết việc làm cho người lao động khu vực nông thôn, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp, nông thôn sang khu vực công nghiệp, dịch vụ. Vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh thực hiện quý II năm 2019 ước đạt 3.998,7 tỷ đồng, lũy kế 6 tháng năm 2019 đạt 7.511,3 tỷ đồng tăng 9,02% so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 53,38% vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn.

Khu vực FDI, nhiều doanh nghiệp cũ tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp mới được cấp phép đang khẩn trương đầu tư xây dựng nhà xưởng, máy móc thiết bị, tuyển dụng và đào tạo lao động nên vốn đầu tư khu vực này tăng khá. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong quý II ước đạt 2.313,3 tỷ đồng, tăng 56,08 % so với quý trước.  Lũy kế 6 tháng 2019,  ước đạt 3.795,3 tỷ đồng tăng 8,16 % so với cùng kỳ năm 2018.

Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được chú trọng. Lãnh đạo tỉnh đã tiếp và làm việc với nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước để nắm bắt thông tin, nhu cầu đầu tư. Từ đó, xác định rõ các thị trường tiềm năng và nhà đầu tư mục tiêu, tập trung xúc tiến đầu tư vào các thị trường: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và hướng sang một số nước như: Australia, New Zealand, Italia, Cộng hòa liên bang Đức, Hoa Kỳ... Cùng với đó, ngày 17/01/2019, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 114 về phê duyệt danh mục dự án kêu gọi đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc; chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tiếp tục làm tốt công tác cải cách hành chính, hướng dẫn, tư vấn cho nhà đầu tư, chủ đầu tư về trình tự, thủ tục, thành phần hồ sơ thực hiện thủ tục hành chính. Đồng thời, tích cực cải thiện môi trường đầu tư, chủ động phối hợp với các cơ quan xúc tiến đầu tư ở Trung ương, các tổ chức xúc tiến các hoạt động xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước để giới thiệu môi trường đầu tư, kinh doanh của tỉnh với các doanh nghiệp đến từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ.

 Kết quả 6 tháng đầu năm, Vĩnh Phúc thu hút được 84 dự án đầu tư, trong đó, cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 57 dự án, điều chỉnh tăng vốn 27 lượt dự án. Cụ thể, tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 37 dự án FDI, tổng vốn đăng ký 224,78 triệu USD; điều chỉnh tăng vốn 23 lượt dự án FDI, tổng vốn đăng ký 197,33 triệu USD, tăng gần 72% so với cùng kỳ năm 2018 và đạt gần 85% mục tiêu thu hút vốn FDI của cả năm 2019. Đối với các dự án DDI, toàn tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 20 dự án, tổng vốn đăng ký trên 5.055 tỷ đồng; điều chỉnh tăng vốn cho 4 lượt dự án, tổng vốn đăng ký 43,96 tỷ đồng, tăng 131,3% cùng kỳ năm ngoái và tăng gần 70% về vốn so với mục tiêu năm 2019. Ước hết tháng 6, toàn tỉnh có 1.095 dự án đầu tư, gồm 357 dự án FDI, tổng vốn đăng ký 4.738 triệu USD và 738 dự án DDI, tổng vốn đầu tư hơn 76.774,7 tỷ đồng.

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Với phương châm đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp phát triển, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng thu hút đầu tư. Tiếp tục tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh phát triển. Rà soát và kiên quyết giảm quy mô đầu tư, loại bỏ phần diện tích đất chưa giải phóng mặt bằng; xem xét thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các khu công nghiệp chưa giải phóng mặt bằng hoặc tiến độ bồi thường giải phóng mặt bằng chậm. Cùng với đó ban hành quy định về tiêu chuẩn lựa chọn chủ đầu tư hạ tầng khu, cụm công nghiệp. Tổ chức các hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, công nhân, chủ động tổ chức các đoàn khảo sát trực tiếp tại doanh nghiệp, duy trì gặp gỡ giữa lãnh đạo tỉnh với doanh nghiệp vào chiều thứ 6 hàng tuần …

Kết quả, 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh có khoảng 570 doanh nghiệp được thành lập mới, với số vốn đăng ký trên 4.348 tỷ đồng, tăng 6,7% về số doanh nghiệp và 33% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm ngoái. Cùng với đó, tiếp tục có 518 lượt doanh nghiệp làm thủ tục đăng ký thay đổi đăng ký kinh doanh. Lũy kế đến hết 30/6, toàn tỉnh có 10.142 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký trên 93.000 tỷ đồng, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra (Mục tiêu đến năm 2020 có 10.000 doanh nghiệp), trong đó, có 7.302 doanh nghiệp đang hoạt động. 

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

6.1. Sản xuất nông nghiệp

 *Trồng trọt: Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh cơ bản đã thu hoạch xong cây lúa và các loại cây trồng vụ đông xuân, một số địa phương đã tiến hành gieo cấy vụ mùa. Thời tiết vụ đông xuân năm nay tương đối thuận lợi cho phát triển của cây trồng, tình hình sâu bệnh hại được phòng trừ kịp thời và kiểm soát tốt, nên năng suất các loại cây trồng nhìn chung đạt khá hơn so với cùng kỳ năm trước.

Kết quả sơ bộ, Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ đông xuân toàn tỉnh đạt 54.408 ha, giảm 5,32% so với năm trước, diện tích gieo trồng giảm tập trung chủ yếu ở các huyện Vĩnh Tường (793ha), Lập Thạch (699ha), Tam Dương (410ha).

nn6t2019

Nông nghiệp của tỉnh đang phát triển theo hướng tăng cường liên kết sản xuất theo chuỗi giữa hộ nông dân, hợp tác xã với doanh nghiệp, dần đưa sản xuất nông nghiệp lên quy mô lớn hơn với giá trị ngày càng tăng. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều mô hình Hợp tác xã liên kết với người dân từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm (rau, củ, quả) nên các sản phẩm sản xuất ra có thị trường tiêu thụ ổn định, từ đó đã tạo điều kiện để người dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất như: Hợp tác xã rau an toàn Visa, Vân Hội xanh, HTX rau an toàn Vĩnh Phúc, HTX rau an toàn Thanh Hà, HTX rau an toàn Đại Lợi... đồng thời, tại một số địa phương trong tỉnh đã có mô hình thuê ruộng để sản xuất rau quả tập trung, liên kết theo chuỗi giá trị với Công ty VinEco và một số Công ty khác cho hiệu quả kinh tế cao, mở ra hướng đi mới cho người dân trong phát triển sản xuất.

Tổng diện tích các loại cây lâu năm hiện có 8.016 ha, giảm 1,3% so với năm 2018. Trong đó, diện tích cây ăn quả là 7.765 ha chiếm 94,51% tổng diện tích. Diện tích cây lâu năm có xu hướng giảm, trong đó giảm nhiều ở cây nhãn, vải, xoài và dâu tằm do hiệu quả kinh tế thấp nên người dân phá bỏ để trồng các loại cây khác, ngoài ra việc thu hồi đất để làm khu công nghiệp, xây dựng công trình... Cụ thể, xoài giảm 22,9 ha, nhãn giảm 52,4 ha, vải giảm 92,1 ha, dâu tằm giảm 20,4 ha. Bên cạnh đó, các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, có đặc điểm sinh trưởng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của từng địa phương trên địa bàn tỉnh được bà con đầu tư mở rộng diện tích như: Chuối tăng 58,7 ha, thanh long tăng 32,0 ha, đu đủ tăng 15,5 ha, chanh tăng 9,7 ha, bưởi tăng 52,3 ha.

*Chăn nuôi: Mặc dù các cơ chế, chính sách của Trung ương, của tỉnh về hỗ trợ phát triển chăn nuôi tiếp tục được triển khai, thực hiện có hiệu quả  nhưng sản xuất chăn nuôi 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh đang gặp rất nhiều khó khăn: Giá một số loại sản phẩm chăn nuôi như trứng gia cầm xuống quá thấp trong thời gian dài, sản phẩm tiêu thụ chậm; DTLCP đã xuất hiện trên địa bàn từ cuối tháng Ba đã gây thiệt hại nặng cho người dân và ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển của ngành chăn nuôi. Công tác phòng, chống dịch đã được các cấp, các ngành vào cuộc quyết liệt, thực hiện các giải pháp đồng bộ để ngăn chặn bệnh DTLCP lây lan. Tuy nhiên, số hộ chăn nuôi lợn nhỏ lẻ trên địa bàn tỉnh còn chiếm tỷ lệ lớn, nhiều hộ còn chủ quan, lơ là chưa thực hiện tốt vệ sinh, khử trùng tiêu độc, phòng, chống dịch theo hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn nên bệnh DTLCP có chiều hướng lan rộng. Tính đến ngày 16/6/2019, bệnh DTLCP đã xảy ra tại 108 xã, thuộc 9/9 huyện, thành phố; các đàn lợn bị bệnh đã được tiêu hủy theo quy định.

6.2. Sản xuất lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp tiếp tục được duy trì ổn định. Công tác trồng rừng được triển khai hiệu quả. Dự kiến 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh trồng được 450 ha rừng trồng mới tập trung (chủ yếu là rừng sản xuất), đạt 64,29% so với kế hoạch năm, tăng 0,9% so với cùng kỳ. Công tác chăm sóc rừng tiếp tục thực hiện trên diện tích 1.313 ha, tăng 3,33% so với cùng kỳ. Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, phòng cháy chữa cháy rừng được thực hiện tốt, trong 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh đã không xảy ra vụ cháy rừng nào.

6.3. Sản xuất thuỷ sản

Sáu tháng đầu năm, sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành, với nhiều chính sách hỗ trợ cho sản xuất, các ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và diện tích nuôi thâm canh được áp dụng rộng rãi; các giống cá mới có năng suất, chất lượng cao được đưa vào sản xuất nên sản lượng thủy sản 6 tháng tăng khá, chất lượng thủy sản ngày càng đáp ứng được yêu cầu của thị trường và tạo ra thu nhập khá cho người nuôi.

Ước diện tích nuôi trồng thủy sản 6 tháng đầu năm đạt 5.328,5 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, diện tích nuôi cá 5.327 ha (chiếm 99,96% diện tích), diện tích nuôi trồng thuỷ sản khác 1,5 ha. Tổng sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm ước đạt 10.520 tấn, tăng 4,53% so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng khai thác đạt 867 tấn, giảm 2,18%; sản lượng nuôi trồng đạt 9.653 tấn, tăng 5,18% so với cùng kỳ.

Tình hình sản xuất giống thuỷ sản ở Vĩnh Phúc đã đi vào ổn định. Toàn tỉnh có 705 cơ sở sản xuất giống thủy sản với diện tích trên 159,6 ha. Các hộ và cơ sở sản xuất giống lớn của tỉnh như Chi cục thủy sản, Công ty cổ phần giống Yên Lạc, Trung tâm Thủy sản cấp 1 và Trung tâm giống vật nuôi sản xuất đủ các loại giống để cung cấp cho bà con nuôi trồng trong và ngoài tỉnh. Sản lượng cá giống ước đạt 1.856,4 triệu con, tăng 5,4% so với cùng kỳ. 

7. Sản xuất công nghiệp

7.1 Chỉ số sản xuất

Sáu tháng đầu năm sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển khá. Nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đã mở rộng quy mô sản xuất, có thêm nhiều đơn hàng và thị trường tiêu thụ. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Sáu tăng 1,52% so tháng trước và tăng 12,12% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,87% so cùng kỳ. Chia theo ngành kinh tế cấp I, trong 6 tháng đầu năm ngành công nghiệp khai khoáng giảm 11,19%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,93%, ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 14,31%, ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 5,50%.

4_ktxh6t2019

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành chiếm  tỷ  trọng  lớn có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2019 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp như:

- Ngành sản xuất sản phẩm điện tử tăng 42,89% so với cùng kỳ do một số doanh nghiệp trong ngành tiếp tục tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ; một số khác mới đầu tư đi vào sản xuất tạo ra giá trị sản lượng lớn;

- Ngành sản xuất kim loại tăng 24,75% so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp trong ngành không ngừng đầu tư công nghệ, kỹ thuật, đa dạng hóa sản phẩm gắn liền với việc đảm bảo chất lượng. Do vậy, sản phẩm của ngành không chỉ có mặt tại các công trình lớn, nhỏ trong nước mà còn có thị phần tại nhiều nước như Mỹ, canada, Lào, Campuchia... góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển;

- Ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 22,12% so với cùng kỳ. Những tháng đầu năm, nhu cầu xây dựng tăng cao. Các doanh nghiệp tập trung cải tiến chất lượng sản phẩm, liên tục cập nhật xu hướng thị trường các nước trong khu vực nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng của các công trình do đó giá trị sản xuất của ngành tăng;

Sáu tháng đầu năm, có 8/24 ngành công nghiệp của tỉnh có chỉ số sản xuất giảm. Trong đó có có hai ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn là ngành sản xuất xe ô tô và ngành sản xuất xe máy với mức giảm lần lượt là 2,22% và 10,46%. Năm 2019, ngành sản xuất xe có động cơ tiếp tục đối mặt với những khó khăn khi thị trường ô tô được dự báo sẽ cạnh tranh gay gắt hơn, lượng xe nhập khẩu tăng cao, lượng xe lắp ráp trong nước tiêu thụ giảm; ngành sản xuất phương tiện vận tải khác giảm do thị trường xe máy đang trong giai đoạn chững lại...

Các ngành công nghiệp khác phát triển ổn định.

2.2. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu

Hầu hết sản lượng sản phẩm công nghiệp chủ yếu của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng Sáu dự kiến đều có mức tăng cao so với tháng trước và so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2019, ngoài sản lượng ô tô giảm 2,22% và xe máy giảm 10,46%, các nhóm sản phẩm công nghiệp chủ yếu còn lại của tỉnh đều có mức tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm 2018: Giày thể thao đạt 3.539 nghìn đôi, tăng 33,62%; gạch ốp lát 71.383 ngàn m2, tăng 22,12%; máy điều hòa không khí 13.916 cái, tăng 35,58%; điện thương phẩm 2.761 triệu kwh, tăng 14,31%...

2.3. Chỉ số sử dụng lao động

Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tháng Sáu tăng 0,96% so với tháng trước và tăng 1,73% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm chỉ số tăng 0,84% so với cùng kỳ; trong đó, khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 4,49%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 4,81%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,08%.

2.4. Chỉ số tiêu thụ, tồn kho

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2019 tăng 1,21% so với tháng trước và giảm 4,8% so với cùng kỳ. Sáu tháng đầu năm, nhiều ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao như: ngành sản xuất khoáng phi kim tăng 22,46%, ngành sản xuất kim loại tăng 23,61%, ngành sản xuất  máy móc thiết bị (điều hòa không khí) tăng 17,34%... Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm như: ngành sản xuất xe có động cơ giảm 7,15%, ngành sản xuất phương tiện vận tải giảm 13,84%... Các ngành còn lại có biến động nhẹ.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2019 tăng 9,58% so với tháng trước và tăng 66,30% so cùng kỳ. Hầu hết các ngành đều có chỉ số tồn kho tăng so cùng kỳ; trong đó, ngành sản xuất xe có động cơ tăng 171,08%, ngành sản xuất phương tiện vận tải tăng 224,55%...

8. Thương mại, dịch vụ

8.1. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Sáu tháng đầu năm 2019, kinh doanh thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh có sự phát triển khá so với cùng kỳ. Cơ sở hạ tầng phục vụ kinh doanh thương mại tiếp tục được đầu tư, mở rộng. Số lượng các đơn vị tham gia kinh doanh thương mại, dịch vụ tăng; nhiều đơn vị đã mở rộng ngành nghề, đa dạng hóa các mặt hàng và phương thức kinh doanh. Cùng với đó, công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường giá cả và chất lượng hàng hóa được tăng cường, góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại và dịch vụ, kích thích sức mua của người tiêu dùng, nên kết quả lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tăng khá so với cùng kỳ, đáp ứng tốt cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm dự kiến đạt 25.106 tỷ đồng, tăng 9,36% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kinh tế nhà nước ước đạt 839 tỷ đồng, tăng 7,30%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 22.748 tỷ đồng, tăng 9,47%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 1.519 tỷ đồng, tăng 8,97% so với cùng kỳ năm trước.

Phân theo nhóm ngành hàng:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa trong 6 tháng đầu năm ước đạt 21.629 tỷ đồng, tăng 9,35% so với cùng kỳ năm trước và tăng ở hầu hết các nhóm ngành hàng. Mạng lưới phân phối hàng hóa của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh được tăng cường và mở rộng. Các hoạt động kích cầu tiêu dùng như giảm giá, khuyến mãi liên tục được đưa ra nhằm thu hút người  dân, tăng sức mua của thị trường.

- Các hoạt động dịch vụ cũng tiếp tục được mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành 6 tháng đầu năm ước đạt 1.972 tỷ đồng, tăng 9,74% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 170 tỷ đồng, tăng 9,41%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 1.752 tỷ đồng, tăng 9,77%; doanh thu du lịch, lữ hành đạt 50 tỷ đồng, tăng 9,75% so với cùng kỳ năm trước. Đời sống xã hội ngày một nâng lên, nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch, ăn uống của người dân tăng cao. Nhiều hệ thống khách sạn, nhà hàng tiêu chuẩn quốc tế 4 sao, 5 sao đã được khai trương và đi vào hoạt động đáp ứng các dịch vụ du lịch, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí của người dân.

- Doanh thu các ngành dịch vụ khác 6 tháng ước đạt 1.505 tỷ đồng, tăng 9,11% so với cùng kỳ năm trước.

8.2. Vận tải hành khách và hàng hoá

Hoạt động vận tải cơ bản đáp ứng được nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa phục vụ sản xuất, kinh doanh. Dự kiến 6 tháng đầu năm vận chuyển hàng hoá ước đạt 16.367 ngàn tấn, tăng 6,92% so với cùng kỳ; luân chuyển đạt 1.214 triệu tấn.km, tăng 6,49%. Khối l­ượng vận chuyển hành khách 6 tháng đầu năm ước đạt 12.603 ngàn người, tăng 4,30%; luân chuyển 855 triệu người km, tăng 5,62%. Tổng doanh thu vận tải 6 tháng đầu năm ước đạt 2.164 tỷ đồng, tăng 9,67% so cùng kỳ.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Công tác giải quyết lao động, việc làm, bảo đảm an sinh xã hội

Công tác giải quyết việc làm trong nước và xuất khẩu lao động tiếp tục được chính quyền địa phương và các ngành chức năng của tỉnh chú trọng, nổi bật trong công tác giải quyết việc làm là việc tăng cường liên kết giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp. Nắm bắt nhu cầu thị trường lao động, nhiều trường nghề đã chủ động đổi mới chương trình giảng dạy gắn với nhu cầu doanh nghiệp và tìm đầu ra việc làm cho học sinh, sinh viên thông qua hình thức hợp đồng liên kết đào tạo, tuyển dụng sau đào tạo với các doanh nghiệp. Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh tiếp tục phát huy vai trò cầu nối quan trọng trong tư vấn, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động; tạo điều kiện thuận tiện cho người lao động, người sử dụng lao động có nhiều cơ hội gặp gỡ, trao đổi thông tin, tuyển dụng và tìm kiếm việc làm. Kết quả, 6 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh ước giải quyết việc làm cho khoảng 12.944 lao động (đạt 53% so với kế hoạch năm 2019), trong đó, đưa 792 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Sàn giao dịch việc làm tại Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh đã tổ chức 21 phiên giao dịch việc và tuyển được tại sàn là 948 lao động, thực hiện tư vấn về chính sách lao động và việc làm cho 8.462 lượt người, giới thiệu việc làm cho 1.472 lượt người.

Công tác đào tạo nghề trên địa bàn đã thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy và thực hành, đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất và trang thiết bị; nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên dạy nghề, hợp lý đồng bộ về cơ cấu ngành nghề; đa dạng hóa các loại hình đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng lao động; chú trọng công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra dạy nghề. Ngày 23/4/2019, UBND tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Quyết định quy định về trình tự, thủ tục, cách thức thực hiện hỗ trợ kinh phí học nghề trình độ cao đẳng, trung cấp, chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông và trung cấp trên địa bàn tỉnh theo Nghị quyết số 42/2018/NQ-HĐND của HĐND tỉnh. Theo Quy định này, kể từ ngày 05/5/2019, học sinh, sinh viên theo học một trong hai mươi nhóm ngành, nghề đã quy định cụ thể sẽ được hưởng hỗ trợ kinh phí trong các năm học 2018 - 2019, 2019 - 2020, 2020 - 2021; mức hỗ trợ tùy theo loại đối tượng và mức cao nhất trong từng năm học là 850, 940, 1.030 nghìn đồng/người/tháng. Đây là một trong những biện pháp tích cực nhằm phân luồng đào tạo sau phổ thông, định hướng nghề nghiệp cho lực lượng lao động trong độ tuổi thanh niên, góp phần tăng tỷ lệ người dân được đào tạo tham gia vào thị trường lao động và đáp ứng yêu cầu đòi hỏi nguồn lao động có trình độ tay nghề của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Những năm qua, cùng với tập trung phát triển kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc đặc biệt quan tâm đến công tác bảo đảm an sinh xã hội. Bằng những chủ trương, biện pháp cụ thể, thiết thực, hệ thống chính sách an sinh xã hội ngày càng đồng bộ, hoàn thiện; đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao; an sinh xã hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo, cận nghèo và các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn. Nhân dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019, Lãnh đạo Đảng, Chính quyền và Mặt trận Tổ quốc tỉnh các cấp đã tổ chức thăm hỏi tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Cụ thể: Có 45.623 đối tượng được thăm hỏi và tặng quà với tổng kinh phí trên 16 tỷ đồng. Trong đó: Tặng 3.978 suất quà cho hộ nghèo, cận nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tổng số tiền gần 4,1 tỷ đồng; tặng 50 triệu đồng cho 90 đối tượng tại các cơ sở bảo trợ xã hội; tặng 996 suất quà cho người cao tuổi với số tiền là 298,8 triệu đồng; tặng 218 suất quà cho trẻ em khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn tương ứng với số tiền 109 triệu đồng. Trong kỳ, đã hỗ trợ xây dựng mới và sửa chữa 113 nhà Đại đoàn kết với tổng số tiền 6,9 tỷ đồng và hỗ trợ bằng tiền mặt, giống, vốn, vật nuôi cho các hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. 6 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói giáp hạt, thiếu đói do thiên tai và dịch bệnh nguy hại, do đó không tổ chức đoàn cứu trợ xã hội khẩn cấp.

Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” tiếp tục được quan tâm và thực hiện tốt, đã huy động được toàn thể các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội, cộng đồng dân cư tham gia, qua đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công. Các chế độ cho đối tượng chính sách như: chế độ thờ cúng liệt sỹ; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người có công, cựu chiến binh, thanh niên xung phong, người hưởng theo chế độ Quyết định 62 của Thủ tướng; quyết định hưởng trợ cấp cho người hoạt động kháng chiến nhiễm chất độc da cam; trợ cấp cho người có thành tích tham gia kháng chiến được tặng Bằng khen; chế độ ưu đãi trong giáo dục đào tạo; giám định thương binh; trợ cấp ưu đãi người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc,… được thực hiện đảm bảo.

Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em tiếp tục được cải thiện đáng kể về mọi mặt, các quyền của trẻ em ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Tỉnh đã chỉ đạo tổ chức 5 hội nghị truyền thông về phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em; phát động Tháng hành động vì trẻ em và các hoạt động nhân dịp ngày quốc tế thiếu nhi 1/6; Quỹ Bảo trợ trẻ em đã tiếp nhận nguồn vốn vận động từ nhà tài trợ với tổng số tiền gần 3 tỷ đồng; trao 886 suất quà Tết cho trẻ em khuyết tật, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; khởi công xây dựng 03 nhà tình thương; vận động hỗ trợ kinh phí phẫu thuật tim cho 3 trẻ em,… Các thiết bị vui chơi giải trí cho trẻ em tại nhà văn hóa các thôn, khu dân cư tiếp tục được rà soát và lắp đặt. Việc cấp thẻ bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi tiếp tục được thực hiện tốt.

2. Giáo dục và đào tạo

Năm học vừa qua, ngành giáo dục và đào tạo của tỉnh tiếp tục có bước tiến tương đối toàn diện, công tác quản lý giáo dục được đổi mới theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các nhà trường; đề án dạy học ngoại ngữ tiếp tục được thực hiện hiệu quả; nội dung, hình thức kiểm tra đánh giá hoạt động học tập của học sinh được đổi mới theo hướng coi trọng đánh giá để giúp đỡ về phương pháp học tập, động viên sự cố gắng, hứng thú học tập của các em trong quá trình dạy học; 100% giáo viên đạt chuẩn các bậc học; cơ sở vật chất trường học và trang thiết bị học tập được quan tâm đầu tư, trong đó ưu tiên đầu tư cho một số trường mầm non ở các xã miền núi, nghèo, xây dựng nông thôn mới còn thiếu phòng học; 100% trường mầm non, tiểu học, 94,3% trường THCS và 87% trường THPT đạt chuẩn quốc gia; chất lượng phổ cập mẫu giáo cho trẻ mầm non 5 tuổi, phổ cập tiểu học và phổ cập THCS tiếp tục được giữ vững; số lượng học sinh giỏi ổn định ở mức cao và mở rộng ở nhiều đối tượng học sinh, trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia lớp 12, toàn tỉnh có 79 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay (87,8%) và đặc biệt có 1 học sinh được chọn vào đội tuyển dự thi Olympic toán quốc tế sẽ tổ chức tại Vương quốc Anh vào tháng 7/2019.

Kỳ thi THPT Quốc gia năm 2019 diễn ra từ ngày 25 - 27/6. Toàn tỉnh có hơn 12.290 thí sinh đăng kí dự thi tại 26 điểm thi. Trong đó, có 7.192 thí sinh đăng kí xét tuyển đại học với 34.133 nguyện vọng. Khoảng hơn 30% tổng số thí sinh lớp 12 đăng ký dự thi theo bài thi tự chọn tổ hợp khoa học tự nhiên, hơn 69% lựa chọn thi tổ hợp các môn khoa học xã hội. Đến nay, công tác chuẩn bị cho kỳ thi tại các điểm thi đã hoàn tất. Các Hội đồng thi đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan xây dựng kế hoạch và có nhiều biện pháp bảo đảm điện lưới, an ninh trật tự, an toàn vệ sinh thực phẩm tại các điểm thi, góp phần để kỳ thi diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế.

3. Y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm

Ngành Y tế đã chỉ đạo các đơn vị y tế chủ động kiểm tra, giám sát các bệnh dịch; trong đó đã xây dựng kế hoạch phòng chống dịch; tổ chức truyền thông hướng dẫn nhân dân các biện pháp phòng, chống, tiêm phòng các loại vắcxin, vệ sinh môi trường vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong nhà trường (đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo)... Vì vậy, trên địa bàn tỉnh đã không có dịch lớn xảy ra, chỉ rải rác một số ca bệnh do chuyển mùa thường gặp như cúm, chân tay miệng, quai bị, thủy đậu...

Công tác tuyên truyền phổ biến Luật An toàn thực phẩm, truyền thông phổ biến kiến thức về an toàn vệ sinh thực phẩm được thực hiện thường xuyên. Sáu tháng đầu năm 2019, các ngành chức năng đã tiến hành thanh kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm đã kiểm tra 3.500 cơ sở về vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó tỷ lệ cơ sở đạt tiêu chuẩn là 86% tăng 2% so cùng kỳ năm 2018, đồng thời xử lý nghiêm theo quy định đối với các cơ sở vi phạm. Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào. 

4. Các hoạt động văn hoá và thể thao

Sáu tháng đầu năm, tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật, vui chơi giải trí chào mừng các ngày lễ của đất nước và của địa phương, đặc biệt tỉnh đã tổ chức công bố Tháp gốm men chùa Trò là Bảo vật Quốc gia và khai mạc trưng bày chuyên đề “Di sản văn hóa thời Lý - Trần trên đất Vĩnh Phúc”. Các hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan, tuyên truyền lưu động chào mừng ngày chiến thắng 30/4, Quốc tế lao động 1/5, chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5, ngày sinh nhật Bác 19/5, 60 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh và truyền thống Bộ đội Trường Sơn được diễn ra rộng khắp. Hướng tới Chào mừng kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2019). Liên đoàn lao động tỉnh tổ chức Liên hoan văn nghệ cán bộ, công chức, viên chức, lao động với sự góp mặt của 15 đoàn nghệ thuật quần chúng đến từ liên đoàn lao động các huyện, thành phố, thị xã; các công đoàn ngành, công đoàn cơ sở trực thuộc đại diện cho hơn 100.000 công nhân viên chức, lao động trong tỉnh. Đây là dịp để các đơn vị giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao hơn nữa chất lượng phong trào văn hóa, văn nghệ, thiết thực xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao.

Phong trào thể dục thể thao diễn ra sôi động với nhiều giải thi đấu thể thao được tổ chức; tỉnh đã đăng cai tổ chức thành công giải vô địch đẩy gậy, giải vô địch kéo co toàn quốc năm 2019; ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân được tổ chức ở nhiều nơi. Bên cạnh đó, các đội tuyển thi đấu thể dục thể thao của tỉnh cũng đã tham gia nhiều giải đấu trên toàn quốc và gặt hái nhiều huy chương, trong đó đội đua thuyền đạt 5 huy chương vàng, đội vật đạt 4 huy chương vàng, đội bắn súng đạt 9 huy chương vàng… 

5. Tình hình trật tự an toàn xã hội và tai nạn giao thông

Trong kỳ, tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội nhìn chung ổn định. Lực lượng Công an triển khai đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm, các vụ phạm tội về trật tự xã hội, các vụ trọng án nhanh chóng được điều tra, làm rõ. Công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc phát huy hiệu quả.

Ngày 15/6/2019, UBND tỉnh tổ chức Lễ phát động ra quân thực hiện đợt cao điểm bảo đảm trật tự an toàn giao thông (ATGT), trật tự đô thị, trật tự công cộng mùa hè năm 2019. Để thực hiện đợt cao điểm, Công an tỉnh sẽ huy động tối đa lực lượng, phương tiện, tăng cường công tác tham mưu, tuyên truyền và tổ chức tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm vi phạm trên các lĩnh vực, không để xảy ra tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng. Tổ chức đồng loạt ra quân, phát hiện và kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm trật tự ATGT, quy tắc tham gia giao thông, nhất là các lái xe có nồng độ cồn, ma túy, vi phạm tốc độ; xe quá khổ, quá tải gây ô nhiễm môi trường, hư hỏng kết cấu hạ tầng giao thông; tổ chức đua xe trái phép, không đội mũ bảo hiểm...

Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, tính đến ngày 15/6/2019, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 18 vụ tai nạn giao thông, 21 người chết và bị thương 14 người, tăng 5 vụ, tăng 11 người chết và tăng 6 người bị thương so cùng kỳ năm 2018. Qua tuần tra, kiểm soát, lực lượng công an tỉnh đã lập biên biển, ra quyết định xử phạt hơn 5.109 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, thu trên 2,6 tỷ đồng nộp ngân sách Nhà nước.

6. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường

- Tình hình cháy nổ: Lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy Công an tỉnh đã mở đợt cao điểm về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; bảo đảm an ninh, trật tự; tổ chức rà soát, xây dựng các ph­ương án xử lý tình huống cháy; thực hiện tốt công tác thường trực sẵn sàng chiến đấu về cả lực lượng và phương tiện để cứu chữa kịp thời, hiệu quả các vụ cháy, nổ xảy ra; yêu cầu các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đóng trên địa bàn kiểm tra các phương tiện, dụng cụ chữa cháy tại chỗ, thiết bị báo cháy, lối thoát nạn, thoát hiểm, đảm bảo an toàn về người và tài sản khi có sự cố xảy ra. Tổ chức tuyên truyền, khuyến cáo nhân dân nâng cao tinh thần tự giác, cảnh giác, đề phòng cháy, nổ. Sáu tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 14 vụ cháy, thiệt hại do cháy trên 5.130 triệu đồng.

- Công tác bảo vệ môi trường: UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 94/KH-UBND ngày 03/6/2019, triển khai hỗ trợ, huy động nhân dân tham gia xây dựng, cải tạo cống, rãnh thoát nước và nạo vét các thủy vực tiếp nhận nước thải trên địa bàn tỉnh, để từng bước khắc phục ô nhiễm môi trường tại các khu dân cư. Hoạt động quản lý tài nguyên nước, địa chất, khoáng sản, khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu được thực hiện tốt, trong đó đã cấp 17 giấy phép về xả nước thải, khai thác nước dưới đất và khai thác nước mặt; xây dựng kế hoạch phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn chuyên dùng năm 2025.

Lễ ra quân Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè 2019 và phát động Chiến dịch làm sạch môi trường, hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới 5/6 với chủ đề “Ô nhiễm không khí và hành động của chúng ta” diễn ra tại Khu công nghiệp Bá Thiện 2. Tại lễ ra quân, Ban Tổ chức đã trao tặng 5 thùng rác thân thiện cho xã Bá Hiến và khen thưởng cho các tác giả, nhóm tác giả có sáng kiến trong công tác bảo vệ môi trường. Theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường, sáu tháng đầu năm đã phát hiện và xử lý 05 vụ vi phạm môi trường với số tiền phạt là 639,67 triệu đồng./.

 

 

luat_sua_doi_ltk

Đang truy cập: 14
Trong ngày: 96
Trong tuần: 981
Lượt truy cập: 1426635

Xin cho biết ý kiến của bạn về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc?
Tốt
Khá
Trung bình
Kém

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚCChung nhan Tin Nhiem Mang

Địa chỉ: Số 20

Lý Thái Tổ - Phường Đống Đa - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Điện thoại: 0211 3 861 139, Fax: 0211 3 843 841Email: vinhphuc@gso.gov.vn, cuctk@vinhphuc.gov.vn