.::. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, cơ sở hành chính, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn .::. .............................................................................................................................................................................................................. ........................................  

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc năm 2019

Lời văn

Số liệu

Năm 2019, tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại với các yếu tố rủi ro, thách thức gia tăng. Ở trong nước, mặc dù chịu tác động không thuận lợi của kinh tế toàn cầu, nhưng nhiều tổ chức quốc tế vẫn có đánh giá tích cực về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2019. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt khá; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện; năng lực cạnh tranh quốc gia được nâng lên. Kết quả đó đã khẳng định tính kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019.

Bên cạnh những thuận lợi, năm 2019 tỉnh Vĩnh Phúc cũng phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức: sản lượng ô tô sản xuất trong nước giảm do thực hiện chính sách giảm thuế khi hội nhập; dịch tả lợn Châu Phi lan rộng gây thiệt hại nặng cho ngành chăn nuôi; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn gặp nhiều khó khăn; tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số nơi có xu hướng tăng; các vướng mắc về giải quyết đất dịch vụ, xử lý các vi phạm về đất đai, giao đất trái thẩm quyền còn chậm tháo gỡ…Trước tình hình đó, ngay từ đầu năm, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019; xây dựng kịch bản tăng trưởng theo từng quý và chỉ đạo các cấp, các ngành thường xuyên, chủ động theo dõi sát tình hình sản xuất kinh doanh, đầu tư, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án đầu tư lớn, trọng điểm. Kết quả tình hình kinh tế - xã hội năm 2019 của tỉnh tiếp tục phát triển tích cực trên các lĩnh vực. Cụ thể như sau:

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Về tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2019 tăng 8,05% so năm 2018. Lĩnh vực công nghiệp xây dựng tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng trong bức tranh phát triển kinh tế của tỉnh, đạt mức tăng 13,11%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh 5,90 điểm %. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm 2,77% do tình hình dịch tả lợn Châu phi (DTLCP) gây thiệt hại nặng cho ngành chăn nuôi. Các ngành thương mại dịch vụ tăng khá, thị trường hàng hoá trên địa bàn đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.

- Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản: Giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2019 giảm 2,77% so với năm 2018, làm giảm tăng trưởng chung của tỉnh là 0,18 điểm %.

+ Trong trồng trọt, mặc dù diện tích gieo trồng cây hàng năm giảm 4,61% (hơn 4 nghìn ha), nhưng cơ cấu cây trồng trên địa bàn tỉnh đã có sự chuyển biến rõ nét, các giống lúa chất lượng ngày càng phát huy hiệu quả, các mô hình ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao được mở rộng trong sản xuất; cơ giới hóa trong nông nghiệp ngày càng được đẩy mạnh ở tất cả các khâu từ làm đất, gieo trồng đến thu hoạch, vận chuyển...; cùng với đó, thời tiết thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển nên năng suất hầu hết các loại cây trồng đều tăng, năm 2019 ngành trồng trọt đạt mức tăng trưởng 0,05%.

+ Sản xuất chăn nuôi: Tình chăn nuôi gia cầm, và chăn nuôi bò (đặc biệt chăn nuôi bò sữa) trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển, sản lượng tăng khá so với năm 2018: sản lượng thịt gia cầm tăng 6,14%, trứng tăng 6,17%, sữa bò tươi tăng 24,4%... Tuy nhiên, chăn nuôi lợn gặp khó khăn do ảnh hưởng của DTLCP xuất hiện trên địa bàn từ cuối tháng 3 năm 2019 nên tổng đàn lợn (không tính lợn sữa) giảm 28,46%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng giảm 16,83%.... Với cơ cấu giá trị chiếm tới gần 50% tổng giá trị ngành chăn nuôi, sự sụt giảm của ngành chăn nuôi lợn là nguyên nhân tăng trưởng chung của ngành chăn nuôi giảm 6,41%.

- Khu vực công nghiệp -xây dựng tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tốt, là động lực cho tăng trưởng chung của tỉnh, giá trị tăng thêm năm 2019 tăng 13,11% so với năm 2018, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh 5,90 điểm %; riêng ngành công nghiệp tăng 13,03%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 5,26 điểm %...

+ Trong công nghiệp, 2 ngành sản xuất chủ lực của tỉnh là ngành sản xuất ô tô và xe máy gặp nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ do phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu nên các doanh nghiệp đang có xu hướng giảm sản xuất trong nước, tăng nhập khẩu, khiến sản lượng sụt giảm 5,45%; ngành sản xuất xe máy do nhu cầu bão hòa nên sản lượng xe máy đã giảm 11,15% so với năm 2018. Tăng trưởng năm 2019 của 2 ngành này giảm lần lượt 3,31% và 5,45%, làm giảm tăng trưởng chung của tỉnh 0,92 điểm %.

Với các chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư, đặt biệt đối với các ngành thuộc lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao, đang thu hút rất nhiều doanh nghiệp thuộc lĩnh vực linh kiện điện tử đầu tư tại Vĩnh Phúc. Từ đầu năm đến nay, ngành linh kiện điện tử luôn duy trì đà tăng trưởng ấn tượng với mức tăng cả năm ước đạt 40,29% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung tới 3,97 điểm % trong tổng số tăng chung của tỉnh là 8,05 điểm %. Như vậy, với tỷ trọng trong giá trị tăng thêm chiếm tới 35,56%, dẫn đầu toàn ngành công nghiệp của tỉnh, sự phát triển của ngành sản xuất linh kiện điện tử đã bù đắp khá tốt cho mức sụt giảm tăng trưởng của ngành ô tô và xe máy, giúp duy trì sự tăng trưởng của ngành công nghiệp cũng như tăng trưởng chung của tỉnh. Bên cạnh đó, năm 2019 còn có sự đóng góp của ngành sản xuất kim loại và ngành sản xuất các sản phẩm từ khoáng phi kim loại; giá trị tăng thêm của 2 ngành đạt trên 3,5 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 10,81% trong tổng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh 0,98 điểm %.

Các ngành công nghiệp còn lại có mức tăng trưởng bình quân đạt 16,22% so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,22 điểm %.

+ Ngành xây dựng: Năm 2019 nhiều dự án, đặc biệt các dự án khu đô thị, dự án hạ tầng khu công nghiệp được cấp giấy chứng nhận đầu tư đã tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà xưởng; các hoạt động xây dựng nhà ở trong dân cư cũng phát triển khá mạnh. Giá trị tăng thêm ngành xây dựng tăng 13,84% so với năm 2018, đóng góp 0,64 điểm % vào tăng trưởng chung của tỉnh.

- Khu vực dịch vụ: Tổng giá trị tăng thêm các ngành dịch vụ năm 2019  tăng 6,80% so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,41 điểm %. Với chính sách cắt giảm chi tiêu ngân sách, một số ngành dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước đạt mức tăng trưởng thấp như: hoạt động của đảng cộng sản, tổ chức chính trị xã hội tăng 2,86%, ngành giáo dục và đào tạo tăng 5,01%... Các ngành dịch vụ còn lại đều đạt mức tăng khá. Trong đó, ngành bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy tăng 8,34% so cùng kỳ, chiếm 28,33% trong tổng giá trị tăng thêm các ngành dịch vụ, đóng góp 0,42 điểm % vào mức tăng chung của tỉnh; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 8,79%, hoạt động vận tải tăng 8,49%...

- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp: Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm năm 2019 theo so sánh đạt 20.725 tỷ đồng, tăng 3,28% so với năm 2018. Chính sách thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc từ khu vực ASEAN đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe ô tô trên địa bàn tỉnh. Sản lượng sản xuất ô tô tuy giảm 5,45% nhưng sản lượng xe nhập khẩu trong năm 2019 tăng trên 70% so với năm 2018 nên thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu tăng khá.

- Về quy mô, cơ cấu trong GRDP: GRDP tỉnh Vĩnh Phúc năm 2019 theo giá hiện hành đạt 118.398 tỷ đồng, đứng thứ 5 Vùng Đồng bằng sông Hồng (Sau Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh) và đứng thứ 14 cả nước. Với sự phát triển mạnh của ngành công nghiệp, cơ cấu kinh tế năm 2019 của tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng trong GRDP năm 2019 là 46,14%; các ngành dịch vụ chiếm 22,34%; ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 5,45%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp chiếm 26,07% (Năm 2018 tỷ trọng tương ứng lần lượt là 44,51%; 22,32%; 5,96% và 27,22%).

CƠ CẤU TRONG GRDP NĂM 2019

(Theo giá hiện hành)

 ktxh20191

2. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

2.1. Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước

Năm 2019, hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn phát triển, nhất là ở khu vực FDI, quy mô nhiều ngành kinh tế tiếp tục mở rộng và tăng trưởng cao đã tạo điều kiện nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách. Ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung tháo gỡ các khó khăn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển; chỉ đạo ngành Thuế làm tốt công tác đánh giá, phân tích, dự báo những yếu tố ảnh hưởng tới nguồn thu; rà soát các khoản thu, các nguồn thu tiềm năng; tăng cường các biện pháp quản lý, khai thác, chống thất thu để bù đắp các khoản hụt thu do tác động của những nguyên nhân khách quan; tăng cường công tác quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng, xử lý nghiêm đối với các hành vi gian lận, lợi dụng chính sách hoàn thuế, chiếm đoạt tiền từ ngân sách Nhà nước.

Tiến độ thu ngân sách nhà nước được đảm bảo, theo số liệu của Kho bạc Nhà nước, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tính đến 15/12/2019 đạt 31.430 tỷ đồng, đạt 113,08% dự toán. Trong đó, thu nội địa đạt 27.588 tỷ đồng, tăng 13,80% so với dự toán. Đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách tỉnh là khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 20.603 tỷ đồng, chiếm 74,68% tổng số thu nội địa, vượt 3,64% so với dự toán; tiếp đến là các khoản thu từ nhà đất đạt 3.470 tỷ đồng, chiếm 12,58% trong tổng thu nội địa; thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 1.026 tỷ đồng... Thu từ Hải quan đạt 3.799 tỷ đồng, tăng 7,02% dự toán. Dự kiến cả năm 2019 tổng thu ngân sách của tỉnh ước đạt 32.457 tỷ đồng, tăng 2,63% so với năm 2018 và vượt 16,8% dự toán, trong đó thu nội địa ước đạt 28.500 tỷ đồng tăng 1,54% so với 2018, vượt 17,6% dự toán.

Về chi ngân sách nhà nước: Do quy mô thu ngân sách lớn nên chi ngân sách luôn được đảm bảo và đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chi thường xuyên. Chủ trương ưu tiên cho đầu tư phát triển và đảm bảo an sinh xã hội tiếp tục được tỉnh thực hiện có hiệu quả. Công tác quản lý chi ngân sách của tỉnh tiếp tục được tăng cường kiểm soát chặt chẽ, các khoản chi đảm bảo theo dự toán, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên. Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến 15/12/2019 đạt 15.675 tỷ đồng. Trong đó, chi thường xuyên đạt 8.140 tỷ đồng, chi đầu tư phát triển đạt 7.477 tỷ đồng. Dự kiến thực hiện cả năm đạt 17.747 tỷ đồng (không bao gồm chi chuyển nguồn sang năm sau và chi tạo nguồn cải cách tiền lương), đạt 105% so với dự toán; trong đó chi đầu tư phát triển 7.985 tỷ đồng, đạt 130% so với dự toán, chi thường xuyên 9.186 tỷ đồng, đạt 98% dự toán.

2.2. Hoạt động ngân hàng, tín dụng

Năm 2019, theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và mục tiêu tăng trưởng tín dụng của ngành, các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn triển khai kế hoạch hoạt động đảm bảo phù hợp với sức hấp thụ vốn của nền kinh tế; tăng cường triển khai các giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng; tập trung cho vay vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn, cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ...; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực phi sản xuất, lĩnh vực tiêu dùng, lĩnh vực có rủi ro cao (như bất động sản, chứng khoán, BOT…). Nhờ đó, tín dụng tăng trưởng tốt ngay từ đầu năm và tăng đều qua các tháng, không còn tình trạng tín dụng tăng thấp vào đầu năm và dồn vào những tháng cuối năm. Dự kiến đến 31/12/2019 tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn ước đạt 78.675 tỷ đồng, tăng 14% so với cuối năm 2018. Trong đó, tiền gửi các TCKT đạt 32.625 tỷ đồng, tăng 15,5% và chiếm tỷ trọng 41,47% trên tổng nguồn vốn huy động;Tiền gửi tiết kiệm đạt 45.000 tỷ đồng, tăng 12,4%, chiếm tỷ trọng 57,19% trên tổng nguồn vốn huy động; Phát hành giấy tờ có giá đạt 1.050 tỷ đồng, tăng 43,25% so với cuối năm 2018.

Tổng dư nợ cho vay dự kiến đến 31/12/2019 đạt 78.002 tỷ đồng, tăng 16% so với cuối năm 2018. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 50.022 tỷ đồng, tăng 17,3% so với cuối năm 2018, chiếm 64,11% tổng dư nợ; Dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 28.000 tỷ đồng, tăng 13,75% so với cuối năm 2018, chiếm 35,89% tổng dư nợ. Tỷ lệ nợ xấu chiếm khoảng 1,17% trên tổng dư nợ. Mặt bằng lãi suất cơ bản ổn định; lãi suất huy động phổ biến ở mức 4,5% đến 7,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên; lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 5,5% đến 8,8%/năm, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8% đến 10,5%.

Bên cạnh việc chú trọng công tác huy động vốn và cho vay nền kinh tế, các hoạt động dịch vụ được các TCTD rất quan tâm và phát triển, đặc biệt là việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt thông qua việc triển khai các dịch vụ ngân hàng điện tử, lắp đặt thêm và kết nối ATM, POS. Đồng thời, các TCTD đã nâng cao chất lượng hoạt động, nỗ lực trong hiện đại hoá công nghệ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về vốn và dịch vụ ngân hàng. Tính đến nay, mạng lưới ngân hàng trên địa bàn tỉnh có 26 Chi nhánh ngân hàng cấp I, 9 chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp huyện, 86 Phòng giao dịch trực thuộc các TCTD, 13 Phòng giao dịch Bưu điện Liên Việt, 31 Quỹ tín dụng nhân dân và 137 điểm giao dịch của ngân hàng chính sách xã hội. Với 213 máy ATM, 700 POS được lắp đặt tại các trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, siêu thị, nhà hàng, khách sạn, các cửa hàng bán lẻ… tạo điều kiện cho người dân dễ dàng thanh toán và sử dụng dịch vụ ngân hàng.

2.3. Bảo hiểm

Năm 2019, Bảo hiểm xã hội (BHXH) tỉnh tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, đơn vị bằng việc đa dạng các hình thức tiếp nhận và trả kết quả (tại bộ phận 1 cửa, tại Trung tâm hành chính công, giao dịch điện tử và thông qua dịch vụ Bưu chính công ích). Công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT được toàn ngành xác định là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó tập trung vào phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Tiếp tục phối hợp với Cục Thuế lấy dữ liệu của các doanh nghiệp để phát triển các đối tượng tham gia BHXH, BHYT bắt buộc tại các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đã góp phần nâng cao tỷ lệ bao phủ bảo hiểm trên địa bàn tỉnh.

Hiện nay, BHXH tỉnh quản lý 5.393 đơn vị, với 1.027.392 người (trong đó: BHXH bắt buộc là 207.144 người; BHXH tự nguyện là 6.607 người; BHTN là 196.286 người; BHYT là 1.020.785  người); tổng thu ước đạt trên 4.600 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu được giao từ 3% đến 5%. Việc cấp sổ BHXH, thẻ BHYT được thực hiện kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho người lao động và nhân dân tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH, BHYT. BHXH tỉnh đã tập trung chỉ đạo có hiệu quả việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH qua đó rút ngắn thời gian giải quyết và tạo thuận lợi cho người thụ hưởng chế độ BHXH. Năm 2019, đã thực hiện xét duyệt hưởng chế độ BHXH hàng tháng cho 1.550 người; trợ cấp BHXH một lần là 8.724 lượt người; trợ cấp BHTN là 8.210 lượt người; Xét duyệt chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho 141.000 lượt người.

3. Chỉ số giá

3.1. Chỉ số giá tiêu dùng

Tháng Mười hai, thị trường hàng hoá trên địa bàn tỉnh sôi động, chuẩn bị cho các dịp lễ tết cuối năm do đó giá cả các mặt hàng có biến động tăng. Trong 11 nhóm hàng chủ yếu, có 8 nhóm hàng ghi nhận mức chỉ số tăng so với tháng trước. Trong đó, tăng cao nhất là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống với mức tăng 5,08%. Do ảnh hưởng của DTLCP khiến nguồn cung thịt lợn trên thị trường ngày càng khan hiếm, trong khi nhu cầu tiêu dùng dịp cuối năm tăng, là yếu tố chủ yếu khiến giá thịt lợn trên thị trường tăng tới 16,16% làm cho nhóm thực phẩm tăng 4,86%, kéo theo nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng 8,24%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,21% chủ yếu ở mặt hàng rượu Vodka Hà Nội 39,5% Vol tăng 0,72%, rượu vang 14-16 độ tăng 1,13%, bia chai Hà Nội tăng 2,67%, bia chai Sài Gòn tăng 0,78% do chuẩn bị cho dịp Tết Nguyên đán nên nhu cầu tiêu dùng tăng hơn. Ngoài ra, với 2 đợt điều chỉnh giá vào các ngày 01/12/2019 và ngày 16/12/2019 của tập đoàn Xăng dầu Việt Nam đã làm cho chỉ số nhóm giao thông tăng 0,63%. Các nhóm khác ổn định và tăng nhẹ.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Mười hai tăng 1,68% so với tháng trước và tăng 6,48% so với tháng 12 năm trước. Đây là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ của các tháng trong năm 2019. Tuy nhiên, tính bình quân mười hai tháng năm 2019, CPI tăng 2,04% so với cùng kỳ năm 2018, là mức tăng bình quân thấp nhất trong 3 năm trở lại đây (bình quân năm 2017, 2018 tăng lần lượt là 4,04%, 3,78%). Như vậy, với việc kiên định chính sách tiền tệ linh hoạt giữ vững mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ đã góp phần kiềm chế lạm phát.

3.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười hai giảm 0,44% so với tháng trước, giá bán bình quân ở mức 4.078 nghìn đồng/chỉ. Cùng chiều với giá vàng, giá Giá Đô la Mỹ trên thị trường tự do giảm 0,04% so với tháng trước, giá bán bình quân là 22.593 đồng/USD. Bình quân năm 2019, chỉ số giá vàng tăng 6,70%; chỉ số giá Đô la Mỹ tăng 1,90% so với cùng kỳ năm 2018.

  

CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG, CHỈ SỐ GIÁ VÀNG, CHỈ SỐ GIÁ ĐÔ LA MỸ

(So với tháng 12 năm 2018)

ktxh20192 

 4. Hoạt động đầu tư

Năm 2019, hoạt động đầu tư, xây dựng trên địa bàn tăng trưởng khá; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được tăng cường; các thành phần kinh tế trên địa bàn tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đóng góp không nhỏ cho sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Trong năm, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản điều hành về tăng cường các hoạt động quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh như về chấn chỉnh công tác quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị; về đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; về tăng cường công tác quản lý hoạt động xây dựng, chất lượng các công trình xây dựng...

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2019 ước đạt 39.415 tỷ đồng, tăng 10,66% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản vẫn chiếm tỷ trọng cao với 69,06% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cụ thể từng khu vực như sau:

- Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước cả năm ước thực hiện 5.838 tỷ đồng, đạt 92,5% kế hoạch năm 2019. Để đảm bảo tiến độ giải ngân những tháng cuối năm 2019, UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt các chủ đầu tư, ban quản lý dự án đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2019 đã được giao; chịu trách nhiệm toàn diện về kết quả giải ngân chậm; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 3/8/2017 của Chính phủ; Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 1/4/2019 và Công điện số 1042/CĐ-TTg ngày 21/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ; kiểm điểm rõ trách nhiệm, xử lý kỷ luật đối với các tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm, cản trở, gây chậm trễ trong triển khai thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công.

- Khu vực kinh tế tư nhân, trang trại và kinh tế hộ dân cư đang ngày càng đóng góp tỷ trọng vốn lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh và có vai trò quan trọng trong thu hút, giải quyết việc làm cho người lao động khu vực nông thôn, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp, nông thôn sang khu vực công nghiệp, dịch vụ. Với chủ trương phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, Tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các nhà đầu tư trong nước; cải thiện môi trường đầu tư, giúp cho cộng đồng doanh nghiệp từng bước vượt qua khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Kết quả thu hút đầu tư trực tiếp trong nước (DDI) đạt kết quả tốt: Năm 2019 tỉnh cấp mới và điều chỉnh tăng vốn đầu tư cho 48 dự án DDI (40 dự án cấp mới và 8 dự án tăng vốn), tổng vốn đăng ký 13,55 nghìn tỷ đồng, cao gấp 4,5 lần kế hoạch, tăng 54% so với năm 2018, trong đó một số dự án có số vốn đầu tư đăng ký cao như dự án khu nhà ở cho chuyên gia và công nhân ở Bình Xuyên (4.323 tỷ đồng), dự án khu đô thị TMS Đầm Cói (4.499,55 tỷ đồng)... Lũy kế năm 2019, có 755 dự án DDI với tổng vốn đầu tư đăng ký là 80,9 nghìn tỷ đồng.

Vốn đầu tư thực hiện năm 2019 của khu vực này ước đạt 16.584 tỷ đồng, tăng 2,70% so với năm 2018, chiếm 42,08% vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn.

- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được triển khai hiệu quả. Cùng với lợi thế về vị trí địa lý, môi trường đầu tư lành mạnh, việc triển khai, thực hiện đồng bộ các giải pháp để thu hút đầu tư với những chương trình, hoạt động xúc tiến đầu tư cụ thể, hiệu quả tại nhiều nước trên thế giới, Vĩnh Phúc tiếp tục được đánh giá là điểm đến tiềm năng của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong kỳ, các đoàn công tác của tỉnh đã thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư tại các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, Đức, Séc và Hoa Kỳ. Đồng thời, tiếp và làm việc với 82 đoàn doanh nghiệp, nhà đầu tư, các tổ chức tư vấn nước ngoài, 191 lượt tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nước đến thăm, tìm hiểu cơ hội đầu tư vào tỉnh, đồng thời tiếp tục thực hiện tốt công tác chăm sóc các nhà đầu tư tại chỗ. Năm 2019, thu hút vốn đầu tư cả dự án FDI vượt mục tiêu đề ra: cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 65 dự án và điều chỉnh tăng vốn 50 dự án FDI, tổng vốn đăng ký 670 triệu USD, tăng 34% kế hoạch và tăng 27,2% so với năm 2018. Khi đi vào hoạt động, các dự án này không chỉ đóng vai trò quan trọng, góp phần tăng thu ngân sách, thúc đẩy kinh tế - xã hội tăng trưởng mà còn giúp tỉnh giải quyết tốt bài toán lao động, nhất là lao động khu vực nông thôn trong tiến trình nỗ lực trở thành tỉnh nông thôn mới vào năm 2020.

Tổng vốn đầu tư thực hiện của khu vực FDI cả năm ước đạt 16.993 tỷ đồng, tăng 32,66 % so với năm 2018.

VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NĂM 2019

ktxh20193

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Năm 2019, các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, Nghị quyết của Tỉnh ủy, các Chương trình, Kế hoạch hành động của UBND tỉnh về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và đặc biệt tạo điều kiện thúc đẩy phong trào khởi nghiệp đã được UBND tỉnh tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai đồng bộ và quyết liệt. Cơ sở hạ tầng tại nhiều cụm, khu công nghiệp tiếp tục chú trọng tập trung hoàn thiện. Công tác cải cách thủ tục hành chính được triển khai theo hướng tiết giảm về thời gian và đơn giản về thủ tục, trong đó đẩy mạnh triển khai Nghị quyết 36a về xây dựng Chính phủ điện tử trọng tâm là ứng dụng công nghệ thông tin. UBND tỉnh duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ giữa lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành với doanh nghiệp, doanh nhân để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Kết quả, số doanh nghiệp được thành lập mới trên địa bàn tỉnh năm 2019 ước đạt 1.160 doanh nghiệp với số vốn đăng ký trên 7.793 tỷ đồng, tăng 9,4% về số doanh nghiệp và tăng 14,8% về số vốn đăng ký so với năm 2018. Trong năm 2019 có 195 doanh nghiệp sau thời gian đăng ký tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại sản xuất, kinh doanh và có 394 doanh nghiệp giải thể, chờ giải thể, tạm ngừng hoạt động. Lũy kế đến hết năm 2019, toàn tỉnh có 10.693 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký trên 119 nghìn tỷ đồng, trong đó có 7.792 doanh nghiệp thực tế hoạt động và 2.900 doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh có thời hạn hoặc chờ giải thể do các doanh nghiệp này năng lực tài chính, năng lực quản trị còn hạn chế, chưa có mặt bằng sản xuất, chưa tìm kiếm được thị trường,...

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

6.1. Sản xuất nông nghiệp

a) Trồng trọt: Năm 2019, sản xuất trồng trọt trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định do thời tiết tương đối thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển, cơ cấu cây trồng có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, các giống lúa mới chất lượng cao đang dần thay thế giống lúa truyền thống, các mô hình sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP được mở rộng đem lại giá trị kinh tế cao.

Diện tích gieo trồng cây hàng năm năm 2019 toàn tỉnh đạt 86.692 ha, giảm 4,61% so với năm trước. Trong đó, diện tích gieo trồng lúa cả năm đạt 54.072 ha, giảm 4,44%; ngô đạt 11.176 ha, giảm 21,81%; diện tích nhóm cây lấy củ có chất bột 4.140 ha, giảm 0,87%; diện tích nhóm cây có hạt chứa dầu 3.568 ha, giảm 3,34%; diện tích rau các loại 9.229 ha, tăng 5,03%... Nguyên nhân diện tích gieo trồng giảm ở một số loại cây là do chi phí sản xuất nông nghiệp cao, mất nhiều công lao động, hiệu quả kinh tế thấp nên bà con bỏ đất trống không gieo trồng và chuyển sang làm các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ cho thu nhập cao hơn. Sơ bộ năng suất, sản lượng một số cây trồng chính như sau: Năng suất lúa đạt 57,92 tạ/ha, giảm 0,85%, sản lượng đạt 313.183 tấn, giảm 5,25% so với năm 2018; ngô đạt 46,96 tạ/ha, tăng 3,69%, sản lượng đạt 52.478 tấn, giảm 18,93%; khoai lang đạt 111,95 tạ/ha, tăng 7,10%, sản lượng đạt 24.809 tấn, tăng 4,28%; rau các loại đạt 225,13 tạ/ha, tăng 4,88%, sản lượng đạt 207.769 tấn, tăng 10,16% so với cùng kỳ...

Kết quả sản xuất nông nghiệp cả năm 2019

ktxh20194

 Diện tích trồng cây lâu năm năm 2019 toàn tỉnh ước tính đạt 8.190 ha, giảm 0,36% so với năm trước, chủ yếu ở một số loại cây cho năng suất thấp, hiệu quả kinh tế không cao như nhãn, vải, xoài, dâu tằm... Bên cạnh đó, các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao đang được bà con đầu tư mở rộng diện tích như: Chuối 1.827 ha, tăng 1,20%; Thanh long 197 ha, tăng 5,31%; Chanh 141 ha, tăng 3,72%; Bưởi 773 ha, tăng 2,47%. Nhìn chung sản xuất cây lâu năm trên địa bàn tỉnh đang dần chuyển đổi từ các cây có giá trị kinh tế thấp sang những loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của từng địa phương, các mô hình sản xuất theo chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế bền vững, đang mở ra hướng đi mới trong sản xuất cây lâu năm, cùng với đó là sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, các ngành trong việc quy hoạch, tìm thị trường, bảo vệ thương hiệu với các loại cây đặc sản đang mở ra hướng đi mới, góp phần nâng cao thu nhập cho bà con nông dân.

b) Chăn nuôi: Sản xuất chăn nuôi năm 2019 gặp nhiều khó khăn do những tháng đầu năm thị trường đầu ra một số loại sản phẩm chăn nuôi như trứng gia cầm xuống quá thấp trong thời gian dài, giá lợn hơi lên, xuống bấp bênh không ổn định. Đặc biệt DTLCP xảy ra tại nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh đã gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi và ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển của ngành nông nghiệp.

Chăn nuôi trâu năm 2019 trên địa bàn tỉnh tiếp tục có xu hướng giảm. Đến hết 31/12/2019 đàn trâu ước có 17.900 con, giảm 1,33% so với cùng thời điểm năm 2018 do hiệu quả kinh tế không cao và diện tích chăn thả bị thu hẹp. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng cả năm ước đạt 1,49 nghìn tấn, giảm 5,16%. Đàn bò phát triển ổn định với mức tăng đạt 0,87% (riêng bò sữa tăng 7,02%) do thuận lợi về giá cả và thị trường tiêu thụ, người chăn nuôi có lãi ổn định; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng cả năm đạt 5,89 nghìn tấn, giảm 2,01%; sản lượng sữa bò đạt 29,84 nghìn tấn, tăng 24,40%.

Chăn nuôi gia cầm phát triển tốt do có thị trường tiêu thụ, không có dịch bệnh lớn xảy ra, người chăn nuôi yên tâm mở rộng quy mô đàn, đặc biệt khi dịch bệnh ở lợn diễn biến phức tạp, nhu cầu tiêu thụ thịt và trứng gia cầm tăng mạnh do người dân chuyển sang sử dụng thay thế thịt lợn. Ước tính đến hết năm 2019, tổng đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh có 11.565 nghìn con, tăng 4,94% so với cùng thời điểm năm 2018; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước tính đạt 33,49 nghìn tấn, tăng 6,14%; sản lượng trứng gia cầm đạt 520 triệu quả, tăng 6,17%.

Tình hình chăn nuôi lợn trong năm gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của DTLCP diễn biến phức tạp đã gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Mặc dù hiện nay giá lợn hơi đã có mức tăng cao nhưng do tâm lý lo ngại dịch bệnh bùng phát trở lại mà nhiều hộ chăn nuôi vẫn chưa dám tái đàn, mở rộng sản xuất nên số lượng đầu con cũng như sản lượng sản phẩm xuất chuồng giảm mạnh so với cùng kỳ. Số lượng đầu con (không bao gồm lợn con lợn con theo mẹ) ước tính đến cuối năm 2019 là 455.500 con, giảm 28,46% so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thịt hơi xuất chuồng cả năm ước đạt 76,16 nghìn tấn, giảm 16,83%.

6.2. Sản xuất lâm nghiệp

Thời tiết trong năm tương đối thuận lợi cho hoạt động trồng, chăm sóc rừng và khai thác lâm sản. Diện tích rừng trồng mới tập trung năm 2019 sơ bộ đạt 700 ha, bằng 100% kế hoạch năm và tăng 0,88% so với năm trước. Bao gồm, 629 ha rừng sản xuất, 71 ha rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.

Cùng với việc trồng mới, công tác chăm sóc và bảo vệ rừng tiếp tục được quan tâm thực hiện. Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế các loại rừng, bên cạnh việc trồng rừng thay thế, trong năm một số địa phương tiếp tục nhân rộng mô hình trồng keo lai BV10, BV16. Công tác cải tạo, khoanh nuôi tái sinh và chăm sóc diện tích rừng được các đơn vị lâm nghiệp và các chủ rừng quan tâm thực hiện cho 2.340 ha rừng, tăng 2,43% so với cùng kỳ, công tác quản lý, bảo vệ rừng được thực hiện thường xuyên cho 9.631 ha rừng hiện có. Đi cùng với việc trồng rừng mới tập trung, công tác trồng cây lâm nghiệp phân tán cũng được các địa phương tích cực thực hiện theo kế hoạch trồng cây phân tán của UBND tỉnh, số lượng cây trồng phân tán ước 1.600 nghìn cây, đạt 100% KH năm. Sản lượng gỗ khai thác đạt 41.041 m3­­­­, tăng 4,03%; sản lượng củi khai thác đạt 52.541 ste, tăng 1,98% so với năm trước.

Công tác phòng, chống cháy rừng luôn được các cấp, các ngành chức năng chỉ đạo thực hiện, nguy cơ cháy rừng được cảnh báo thường xuyên. Tuy nhiên, do thời tiết hanh khô những tháng đầu năm nên đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 2 vụ cháy rừng, giảm 4 vụ so với năm trước, diện tích bị cháy 4,4 ha, giảm 10,04 ha diện tích rừng bị thiệt hại.

6.3. Sản xuất thuỷ sản

Năm 2019, sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc cơ bản ổn định, thời tiết thuận lợi và giá thủy sản duy trì ở mức cao giúp cho người dân yên tâm sản xuất. Các chính sách hỗ trợ của tỉnh đối với sản xuất thủy sản tiếp tục được thực hiện đã có tác động tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong nuôi trồng thủy sản. Cùng với đó, các hộ nuôi trồng thủy sản đã chủ động tích cực đầu tư, áp dụng nuôi thâm canh tăng năng suất, các giống cá có năng suất, chất lượng cao được đưa vào ngày càng nhiều; công tác phòng chống dịch bệnh được các cơ sở, các hộ chủ động thực hiện nên thủy sản nuôi trồng phát triển tốt, sản lượng khá và đa dạng về chủng loại, sản xuất con giống đáp ứng tốt nhu cầu của bà con trong và ngoài tỉnh. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2019 ước đạt 6.658 ha, giảm 2,01% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản ước đạt 22,07 nghìn tấn, tăng 4,94% so với năm trước. Trong đó, sản lượng khai thác đạt 1,99 nghìn tấn, giảm 1,57%; sản lượng nuôi trồng đạt 20,08 nghìn tấn, tăng 5,63% so với năm 2018.

7. Sản xuất công nghiệp

7.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng cao trong tháng cuối năm. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng Mười hai ước tính tăng 13,04% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 5,68%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,02%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,49%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 26,13%. Tính chung quý IV năm 2019, IIP ước tính tăng 10,92% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 19,64%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,92%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,66%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 28,74%.

Tính chung cả năm 2019, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 11,30% so với năm trước (quý I tăng 10,83%; quý II tăng 9,35%; quý III tăng 13,87%; quý IV tăng 10,92%), tuy thấp hơn mức tăng 15,17% của năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng các năm từ 2014 đến 2017. Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt, thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn ngành với mức tăng 11,30% (quý I tăng 10,85%; quý II tăng 9,32%; quý III tăng 13,84%; quý IV tăng 10,92%); ngành sản xuất và phân phối điện đảm bảo cung cấp đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng của dân cư với mức tăng 13,10%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 18,05%; riêng ngành khai khoáng giảm 11,09%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp giai đoạn 2017-2019

ktxh20195

 Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành chiếm tỷ trọng lớn có chỉ số sản xuất mười hai tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung của toàn ngành công nghiệp như: Ngành sản xuất linh kiện điện tử tiếp tục dẫn đầu với mức tăng 43,41%; ngành sản xuất thiết bị điện tăng 29,11%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 26,78%; ngành sản xuất kim loại tăng 24,14%... Bên cạnh đó, vẫn có 7/24 ngành công nghiệp cấp II của tỉnh có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành sản xuất xe có động cơ tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ do phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu nên các doanh nghiệp đang có xu hướng giảm sản xuất trong nước, tăng nhập khẩu, khiến sản lượng sản xuất mười hai tháng giảm 5,45%; ngành sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 11,15% do thị trường đang ở mức bão hòa; ngành sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 20,20%; ngành sản xuất trang phục giảm 2,88%...

Các ngành công nghiệp còn lại phát triển ổn định.

7.2. Sản lượng sản phẩm công nghiệp chủ yếu

Hầu hết sản lượng sản phẩm công nghiệp chủ yếu của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng Mười hai dự kiến đều có mức tăng cao so với tháng trước và so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2019, ngoài sản lượng quần áo các loại giảm 2,66%, ô tô giảm 5,45%, xe máy giảm 11,15%, các nhóm sản phẩm công nghiệp chủ yếu còn lại của tỉnh đều có mức tăng trưởng khá cao so với năm 2018. Trong đó, doanh thu từ sản xuất linh kiện điện tử đạt 97.024 tỷ đồng, tăng 43,41%; máy điều hòa không khí 22.865 chiếc, tăng 35,54%; giày, dép thể thao 7.578 nghìn đôi, tăng 23,88%; nước máy thương phẩm 26.490 nghìn m3, tăng 15,31%; điện thương phẩm 5.988 triệu kwh, tăng 13,10%; gạch ốp lát 133.515 nghìn m2, tăng 12,03%; thức ăn gia súc 272.038 tấn, tăng 7,32%...

7.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2019 tăng 0,64% so cùng thời điểm tháng trước và tăng 4,92% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 6,94%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,17%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 6,53% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 40,00% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 5,12%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,74%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,89%.

7.4. Chỉ số tiêu thụ, tồn kho

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Mười hai tăng 1,49% so với tháng trước và giảm 1,38% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2019, nhiều ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao như: ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 31,66%, ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 25,79%, ngành sản xuất kim loại tăng 20,28%, ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 19,12%, ngành sản xuất thiết bị điện  tăng 12,73%... Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm như: ngành sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 15,14%; ngành sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 12,69%, ngành sản xuất trang phục giảm 6,00%; ngành sản xuất xe có động cơ giảm 5,24%... Các ngành còn lại có biến động nhẹ.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/12/2019 tăng 53,50% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2018 tăng 33,65%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm như: ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 37,45%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 34,26%; ngành sản xuất sản phẩm hóa chất tăng 19,75%; ngành sản xuất, chế biến gỗ giảm 8,99%; ngành sản xuất thiết bị điện giảm 27,37%; ngành sản xuất xe có động cơ giảm 39,26%; ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 69,06%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn mức tăng chung: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 169,66%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 150,65%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 133,43%; sản xuất kim loại tăng 59,49%.

8. Thương mại, dịch vụ

Năm 2019, kinh doanh thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh có sự phát triển khá so với cùng kỳ. Cơ sở hạ tầng phục vụ kinh doanh thương mại tiếp tục được đầu tư, mở rộng. Số lượng các đơn vị tham gia kinh doanh thương mại, dịch vụ tăng; nhiều đơn vị đã mở rộng ngành nghề, đa dạng hóa các mặt hàng và phương thức kinh doanh. Trong năm, trên địa bàn tỉnh đã khai trương thêm nhiều cơ sở kinh doanh hàng hoá và dịch vụ có giá trị lớn, như: ô tô, xe máy, các mặt hàng điện, điện tử cao cấp; hệ thống các siêu thị mini thuộc chuỗi siêu thị Vinmart + mới khai trương đi vào hoạt động đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân về các thực phẩm sạch, sản phẩm uy tín, chất lượng. Cùng với đó, công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường giá cả và chất lượng hàng hóa được tăng cường, góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại và dịch vụ, kích thích sức mua của người tiêu dùng, nên kết quả lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tăng khá so với cùng kỳ, đáp ứng tốt cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

8.1. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả năm 2019 ước đạt 51.836 tỷ đồng, tăng 10,64% so với cùng kỳ năm trước.

Phân theo nhóm ngành hàng:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 44.629 tỷ đồng, tăng 10,77% so với năm trước và tăng ở tất cả các nhóm ngành hàng. Một số nhóm ngành hàng tăng khá như: Nhóm hàng phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 14,76%; Nhóm hàng may mặc tăng 14,41%; Nhóm hàng vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 13,17%; Nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng 12,63%; Nhóm hàng gỗ và vật liệu xây dựng tăng 10,27% so với cùng kỳ,... Do mạng lưới phân phối hàng hóa của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh được tăng cường và mở rộng. Các hoạt động kích cầu tiêu dùng như giảm giá, khuyến mại liên tục được đưa ra nhằm thu hút người dân, tăng sức mua của thị trường. Thị trường giá cả ổn định, nhiều mặt hàng lương thực thực phẩm, đồ dùng gia đình... ngày càng phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của nhân dân nên đã kích ứng được nhu cầu mua sắm của người dân.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt 4.125 tỷ đồng, tăng 9,01% so với năm trước. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 357 tỷ đồng, tăng 8,27%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 3.664 tỷ đồng, tăng 9,04%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 104 tỷ đồng, tăng 10,27%. Đời sống xã hội ngày một nâng lên, nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch, ăn uống của người dân tăng cao. Nhiều hệ thống khách sạn, nhà hàng tiêu chuẩn quốc tế 4 sao, 5 sao đã được khai trương và đi vào hoạt động đáp ứng các dịch vụ du lịch, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí của người dân. Bên cạnh đó, du lịch về tâm linh kết hợp với nghĩ dưỡng tiếp tục được chú trọng. Trong năm, lượng khách đến thăm quan, du lịch tại một số đền chùa như Tây Thiên, Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên... kết hợp với nghỉ mát ở Tam Đảo ngày càng nhiều đã tạo sức hút của tỉnh đối với du khách thập phương, điều đó góp phần làm tăng doanh thu khá cao cho ngành so với cùng kỳ.

- Doanh thu các ngành dịch vụ khác ước đạt 3.082 tỷ đồng, tăng 11,06% so với năm 2018.

8.2. Vận tải hành khách và hàng hoá

Năm 2019, tình hình kinh doanh vận tải trên địa bàn tỉnh ổn định, chất lượng dịch vụ các loại hình vận tải tiếp tục được cải thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân, nhất là trong các dịp cao điểm nghỉ lễ, Tết. Theo số liệu từ Sở Giao thông vận tải, toàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 330 doanh nghiệp tham gia vận tải hành khách và hơn 1.400 doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh vận tải hàng hóa, với tổng số hơn 10.000 xe.

Để tiếp tục đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của nhân dân trong dịp tết Dương lịch và Tết Nguyên đán, ngành Giao thông vận tải Vĩnh Phúc đã chỉ đạo các đơn vị, doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh vận tải tăng cường công tác đầu tư, nâng cấp các phương tiện vận tải, nâng cao chất lượng dịch vụ; tuân thủ nghiêm quy định về giá, lịch trình, các điểm dừng đỗ đón trả khách, quy định về số lượng hàng khách, hàng hóa vận chuyển trên mỗi chuyến xe, đảm bảo an toàn giao thông.

Dự kiến, tổng khối lượng vận chuyển hành khách năm 2019 đạt 25.555 nghìn người, tăng 3,69%; luân chuyển đạt 1.732 triệu người.km, tăng 4,32% so với năm trước. Tổng khối lượng vận chuyển hàng hóa cả năm ước đạt 34.242 nghìn tấn, tăng 5,53%; luân chuyển đạt trên 2.551 triệu tấn.km, tăng 6,50% so với năm 2018.

Doanh thu vận tải năm 2019 ước đạt 4.451 tỷ đồng, tăng 9,07% so với năm 2018. Trong tổng số, vận tải đường bộ đạt 3.425 tỷ đồng, tăng 8,16%; vận tải đường sông đạt 902 tỷ đồng, tăng 10,93%; vận tải hàng hoá đạt 3.325 tỷ đồng, tăng 9,11%; vận tải hành khách đạt 1.002 tỷ đồng, tăng 7,47% so với năm trước...

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Công tác giải quyết lao động, việc làm, bảo đảm an sinh xã hội

- Công tác giải quyết lao động, việc làm: Công tác giải quyết việc làm trong nước và xuất khẩu lao động tiếp tục được tỉnh quan tâm. Bên cạnh việc ban hành và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ dạy nghề và giải quyết việc làm, tỉnh cũng chú trọng vào việc: đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ để mở sàn giao dịch việc làm online thường xuyên tại trung tâm giới thiệu việc làm, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tìm kiếm việc làm; xây dựng mạng lưới thu thập, phân tích và cung cấp thông tin thị trường lao động, nhất là thông tin về cầu lao động và dự báo về thị trường lao động; đẩy mạnh sự liên kết giữa trung tâm giới thiệu việc làm với các doanh nghiệp trên địa bàn và các cơ sở đào tạo nghề; duy trì Tổng đài tư vấn về chính sách lao động - việc làm, thông tin thị trường lao động. Kết quả, năm 2019 toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 24.433 lao động (tăng 6,2% so với kế hoạch năm 2019), trong đó đưa 2.000 người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Sàn giao dịch việc làm tại Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh đã tổ chức 42 phiên giao dịch việc làm (trong đó có 06 phiên lưu động), đã có 488 lượt doanh nghiệp tham gia tuyển lao động, số người được tuyển tại sàn là 2.183 người, số được tư vấn về chính sách lao động việc làm là 13.434 lượt người.

- Công tác an sinh xã hội: Những năm qua, cùng với tập trung phát triển kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc đặc biệt quan tâm đến công tác bảo đảm an sinh xã hội. Bằng những chủ trương, biện pháp cụ thể, thiết thực, hệ thống chính sách an sinh xã hội ngày càng đồng bộ, hoàn thiện; đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao. Nhân dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019, Lãnh đạo Đảng, Chính quyền và Mặt trận Tổ quốc các cấp đã tổ chức thăm hỏi tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Cụ thể: Có 45.623 đối tượng được thăm hỏi và tặng quà với tổng kinh phí trên 16 tỷ đồng. Trong đó: Tặng 3.978 suất quà cho hộ nghèo, cận nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tổng số tiền gần 4,1 tỷ đồng; tặng 50 triệu đồng cho 90 đối tượng tại các cơ sở bảo trợ xã hội; tặng 996 suất quà cho người cao tuổi với số tiền là 298,8 triệu đồng; tặng 218 suất quà cho trẻ em khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn tương ứng với số tiền 109 triệu đồng. Trong kỳ, đã hỗ trợ xây dựng mới và sửa chữa 154 nhà Đại đoàn kết với tổng số tiền 8,4 tỷ đồng và hỗ trợ bằng tiền mặt, giống, vốn, vật nuôi cho các hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Năm 2019, trên địa bàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói giáp hạt, thiếu đói do thiên tai và dịch bệnh nguy hại, do đó không tổ chức đoàn cứu trợ xã hội khẩn cấp.

Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” tiếp tục được quan tâm và thực hiện tốt, đã huy động được toàn thể các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội, cộng đồng dân cư tham gia, qua đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công. Các chế độ cho đối tượng chính sách như: Giải quyết chế độ mai tang phí và tuất đối với thân nhân người có công cho 1.782 trường hợp với tổng số tiền trên 24,8 tỷ đồng; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người có công, cựu chiến binh, thanh niên xung phong, người hưởng theo chế độ Quyết định 62 của Thủ tướng Chính phủ; chi trả trợ cấp cho người hoạt động kháng chiến nhiễm chất độc da cam, trợ cấp cho người có thành tích tham gia kháng chiến được tặng Bằng khen; thực hiện giám định thương binh, trợ cấp ưu đãi người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc… được thực hiện đảm bảo.

Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em tiếp tục được cải thiện đáng kể về mọi mặt, các quyền của trẻ em ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Tỉnh đã chỉ đạo tổ chức 5 hội nghị truyền thông về phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em; phát động Tháng hành động vì trẻ em và các hoạt động nhân dịp ngày quốc tế thiếu nhi 1/6; Quỹ Bảo trợ trẻ em đã tiếp nhận nguồn vốn vận động từ nhà tài trợ với tổng số tiền gần 3 tỷ đồng; trao 886 suất quà Tết cho trẻ em khuyết tật, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; khởi công xây dựng 03 nhà tình thương; vận động hỗ trợ kinh phí phẫu thuật tim cho 3 trẻ em,… Các thiết bị vui chơi giải trí cho trẻ em tại nhà văn hóa các thôn, khu dân cư tiếp tục được rà soát và lắp đặt. Việc cấp thẻ bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi tiếp tục được thực hiện tốt.

2. Giáo dục và đào tạo

- Giáo dục phổ thông: Năm 2019, ngành Giáo dục đã tiến hành sắp xếp lại mạng lưới các trường học theo hướng tinh gọn, kết quả toàn tỉnh sáp nhập giảm 29 trường, trong đó bậc Mầm non giảm 6 trường, bậc THCS giảm 20 trường, THPT giảm 03 trường.

Năm học 2018-2019, ngành giáo dục và đào tạo của tỉnh tiếp tục có bước tiến tương đối toàn diện, công tác quản lý giáo dục được đổi mới theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các nhà trường; đề án dạy học ngoại ngữ tiếp tục được thực hiện hiệu quả; nội dung, hình thức kiểm tra đánh giá hoạt động học tập của học sinh được đổi mới theo hướng coi trọng đánh giá để giúp đỡ về phương pháp học tập, động viên sự cố gắng, hứng thú học tập của các em trong quá trình dạy học; 100% giáo viên đạt chuẩn các bậc học; cơ sở vật chất trường học và trang thiết bị học tập được quan tâm đầu tư, trong đó ưu tiên đầu tư cho một số trường mầm non ở các xã miền núi, xã nghèo, xã xây dựng nông thôn mới còn thiếu phòng học; chất lượng phổ cập mẫu giáo cho trẻ mầm non 5 tuổi, phổ cập tiểu học và phổ cập THCS tiếp tục được giữ vững; số lượng học sinh giỏi ổn định ở mức cao, trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia lớp 12, toàn tỉnh có 79 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay (87,8%) và đặc biệt có 1 học sinh được huy chương bạc Olympic toán quốc tế tổ chức tại Vương quốc Anh. Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia với kết quả tốt nghiệp đạt 98,1%, chất lượng điểm trung bình các môn thi đứng thứ 6 toàn quốc.

- Công tác đào tạo nghề: Công tác đào tạo nghề luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh thông qua việc ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ người lao động của tỉnh tham gia học nghề; cơ sở vật chất, thiết bị dạy học được đầu tư, hoàn thiện; trình độ giáo viên dần chuẩn hóa. Tổng số người học giáo dục nghề nghiệp được tuyển mới là 9.603 người, trong đó trình độ cao đẳng 91 người, trình độ trung cấp 716 người và trình độ sơ cấp là 8.796 người. Các trường chuyên nghiệp và đào tạo nghề đã đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo, đánh giá kết quả học tập của người học gắn với năng lực thực hiện, bước đầu áp dụng chương trình đào tạo đảm bảo tỷ lệ thời lượng dành cho dạy thực hành, thực tập từ 50- 75% theo hướng đáp ứng chuẩn đầu ra của học sinh tốt nghiệp, mời doanh nghiệp tham gia xây dựng và đánh giá chương trình đào tạo để đáp ứng nhu cầu thị trường.

3. Y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm

Công tác phòng dịch: Năm 2019, ngành Y tế luôn chủ động theo dõi, giám sát chặt chẽ tình hình bệnh dịch, chỉ đạo các đơn vị y tế chủ động phòng chống dịch, tập trung kiểm tra, giám sát và tổ chức điều trị kịp thời cho người bệnh, do vậy trên địa bàn tỉnh đã không có dịch xảy ra, cơ cấu bệnh truyền nhiễm ổn định, phần lớn các bệnh truyền nhiễm có xu hướng giảm hơn so với tháng trước và so với cùng kỳ, chỉ rải rác một số ca bệnh do chuyển mùa thường gặp như lỵ trực trùng, tiêu chảy, cúm, sởi... Đồng thời ngành Y tế cũng chỉ đạo các bệnh viện, cơ sở khám, chữa bệnh thực hiện nghiêm túc quy trình kỹ thuật chuyên môn từ khâu đón tiếp người bệnh, làm hồ sơ bệnh án, chuẩn đoán, theo dõi, tiên lượng và điều trị. Các chương trình mục tiêu như tiêm chủng mở rộng, chương trình sức khỏe sinh sản, phòng chống suy dinh dưỡng, chương trình phòng chống các bệnh lây nhiễm, các bệnh không lây, bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng, y tế học đường, chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình tiếp tục được duy trì, triển khai hiệu quả.

Tình hình an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP): Công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm được đẩy mạnh, tính đến 30/11/2019, các ngành chức năng đã kiểm tra 5.519 cơ sở về vệ sinh an toàn thực phẩm, số cơ sở đạt tiêu chuẩn là 4.713, đạt tỷ lệ 85,4%; 806 cơ sở không đạt, chiếm 14,6%, số tiền xử phạt vi phạm là 111,85 triệu đồng, các lỗi chủ yếu của các cơ sở là kinh doanh hàng hóa quá hạn sử dụng ghi trên bao bì, không niêm yết giá theo quy định, thực hiện không đúng quy định lưu mẫu thức ăn, về chế độ kiểm thực 3 bước, dụng cụ thu gom rác không có nắp đậy, không trang bị hệ thống diệt khuẩn không khí ở khu vực triết rót nước uống đóng bình, người sản xuất thực phẩm không mang ủng hoặc giầy dép riêng, người chế biến thức ăn chín không mang găng tay… đoàn kiểm tra đã xử lý các cơ sở vi phạm các nội dung về an toàn vệ sinh thực phẩm theo đúng quy định của pháp luật. Đến nay, trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Công tác phòng, chống HIV/AIDS được truyền thông rộng rãi góp phần nâng cao nhận thức về phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng; an toàn trong truyền máu được chú trọng tại các cơ sở y tế có phẫu thuật và truyền máu. Tính đến ngày 30/11/2019, lũy tích có 4.418 người nhiễm HIV, lũy tích số người chuyển AIDS là 2.301 người, lũy tích số người tử vong do AIDS là 1.009 người. Số bệnh nhân đang nhận thuốc điều trị ARV là 900 bệnh nhân (có 28 bệnh nhân là trẻ em).

4. Các hoạt động văn hoá và thể thao

Công tác tuyên truyền, cổ động, tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật, vui chơi giải trí, triển lãm, biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, tổ chức lễ hội truyền thống chào mừng các ngày lễ của đất nước, của tỉnh được các đơn vị tích cực triển khai thực hiện theo kế hoạch năm; các hoạt động diễn ra sôi nổi, đa dạng, rộng khắp, đảm bảo trang nghiêm, trật tự, tiết kiệm, đúng quy định. Hơn 70 buổi biểu diễn chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhân dân được đông đảo quần chúng ghi nhận, đánh giá cao về nội dung, chất lượng nghệ thuật cũng như sự đa dạng, đổi mới về hình thức biểu diễn, điển hình như: chương trình nghệ thuật “Mừng Đảng quang vinh - Mừng xuân Kỷ Hợi 2019”; chương trình nghệ thuật phục vụ Hội Báo xuân; chương trình ngày thơ Việt Nam; biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhân dân các xã miền núi và phục vụ các lễ hội; biểu diễn và ghi hình 2 vở chèo “Thị Ngự Sử về làng” và “Quả cau vàng” phát sóng trên VTV1 - Đài truyền hình Việt Nam; dàn dựng và công diễn vở chèo “Phương thuốc thần kỳ”; tổ chức thành công Liên hoan hát văn, hát chầu văn tỉnh Vĩnh Phúc mở rộng... Công tác quản lý di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hóa xã hội tiếp tục được quan tâm tu bổ, tôn tạo đảm bảo gìn giữ tối đa yếu tố lịch sử văn hóa lâu đời, trong đó đã tổ chức công bố Tháp gốm men chùa Trò là Bảo vật Quốc gia và khai mạc trưng bày chuyên đề “Di sản văn hóa thời Lý - Trần trên đất Vĩnh Phúc”...

Hoạt động các cơ quan báo chí, bản tin, trang thông tin điện tử, đài truyền thanh các cấp đã bám sát định hướng tuyên truyền và làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền các chủ đề trọng tâm; xuất bản nhiều ấn phẩm được quan tâm, cải thiện cả về hình thức và nội dung đáp ứng tốt nhiệm vụ chính trị của tỉnh và góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân, trong đó Đài Phát thanh truyền hình phát sóng 24 giờ/ngày, phát thanh 3 buổi/ngày; cổng Thông tin giao tiếp điện tử tỉnh cập nhật gần 1,5 nghìn tin bài, video, đăng tải trên 5,8 nghìn dữ liệu về văn bản chỉ đạo điều hành của tỉnh, văn bản quy phạm pháp luật, chính sách mới...

Phong trào tập luyện thể dục thể thao ở các cơ quan, xã, phường, thị trấn, khu dân cư phát triển mạnh ở các môn: thể dục dưỡng sinh, đi bộ, cầu lông, bóng chuyền hơi, bóng bàn... Nhiều giải thi đấu thể thao được tổ chức như: giải bóng chuyền Tây Thiên, giải cầu lông gia đình, giải vô địch cup các Câu lạc bộ bóng chuyền hơi toàn tỉnh; đăng cai tổ chức thành công giải vô địch đẩy gậy, giải vô địch kéo co toàn quốc; ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân được tổ chức ở nhiều nơi. Thể thao thành tích cao của tỉnh được duy trì đào tạo tập luyện ở các môn trọng điểm như: Bắn cung, Bắn súng, Bóng bàn, Bóng chuyền nữ, Bóng đá nam, Cầu lông, Cử tạ, Điền kinh, Đua thuyền, Karatedo, Quần vợt, Xe đạp, Pencak Silat, Vật cổ điển, Vật tự do và Wushu. Trong năm 2019, các đội thể thao của tỉnh tham gia thi đấu trong nước và quốc tế đã giành được 237 huy chương các loại, gồm có 81 huy chương Vàng, 66 huy chương Bạc và 90 huy chương Đồng.

5. Tình hình trật tự an toàn xã hội và tai nạn giao thông

- Tình hình trật tự an toàn xã hội: Với mục tiêu bảo vệ tuyệt đối an toàn các sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội quan trọng, đồng thời, chủ động giải quyết các vụ việc phức tạp ngay từ cơ sở, phục vụ nhân dân vui tết, đón xuân an toàn. Sáng 16/12/2019, Công an tỉnh đã tổ chức lễ ra quân đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, bảo đảm an ninh trật tự tết Nguyên đán Canh Tý và các lễ hội xuân năm 2020. Theo đó, lực lượng công an toàn tỉnh sẽ đồng loạt ra quân tấn công trấn áp tội phạm, giữ vững an ninh trật tự, triển khai có hiệu quả các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông, không để xảy ra tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, ùn tắc giao thông trong dịp tết nguyên đán. Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh trật tự, siết chặt quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện, kiểm tra hoạt động của các cơ sở kinh doanh cầm đồ, hỗ trợ tài chính. Phòng ngừa, đấu tranh với các vi phạm về vũ khí vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo; phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi mua bán, vận chuyển, sử dụng pháo trái phép trong dịp tết, nhất là thời điểm giao thừa; bảo đảm an ninh, an toàn các địa điểm công cộng, các lễ hội đầu xuân.

- Tình hình tai nạn giao thông: Công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông được tăng cường. Các đợt cao điểm đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị, trật tự công cộng, kết hợp với đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người tham gia giao thông được triển khai hiệu quả. Đồng thời, tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm được xem là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn giao thông như: chạy quá tốc độ quy định, đi không đúng phần đường, làn đường, vi phạm quy định về nồng độ cồn, người điều khiển hoặc người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm theo quy định bắt buộc và các hành vi vi phạm khác. Theo báo cáo của Công an tỉnh, tính đến ngày 15/12/2019, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 41 vụ tai nạn giao thông, 31 người chết và bị thương 33 người, so cùng kỳ năm 2018 tình hình an toàn giao thông giảm cả 03 tiêu chí số vụ, số người chết và số người bị thương.

6. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường

- Tình hình cháy nổ: Công tác phòng chống cháy nổ được quan tâm. Các hình thức tuyên truyền về phòng chống cháy nổ được triển khai sâu rộng, đa dạng qua hệ thống phát thanh tại các điểm giao thông, hệ thống truyền thanh xã, phường và các cơ quan thông tin đại chúng; đồng thời đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Toàn dân tham gia phòng cháy chữa cháy” nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong công tác phòng cháy chữa cháy… Triển khai công tác huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ về phòng cháy chữa cháy cho lực lượng dân phòng, lực lượng phòng cháy chữa cháy cơ sở, phòng cháy chữa cháy chuyên ngành, trong đó đã tổ chức 64 phương án chữa cháy. Thường xuyên kiểm tra, phát hiện và xử phạt nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật. Theo  báo cáo của Công an tỉnh Vĩnh Phúc, trong tháng Mười hai trên địa bàn tỉnh xảu ra 02 vụ cháy, làm 04 người chết, ước tính giá trị thiệt hại 2.911 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 30 vụ cháy (trong đó có 20 vụ cháy công ty và cơ sở sản xuất kinh doanh, 09 vụ cháy nhà ở của dân và 01 vụ cháy rừng), ước giá trị thiệt hại trên 75.012 triệu đồng.

- Công tác bảo vệ môi trường: Công tác bảo vệ môi trường tiếp tục được quan tâm, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường đến các tầng lớp nhân dân như: Hưởng ứng ngày Nước thế giới 22/3 với chủ đề “Nước cho tất cả - không để ai bị bỏ lại phía sau”; Chiến dịch Giờ trái đất vào tối 30/3; hỗ trợ, huy động nhân dân tham gia xây dựng, cải tạo cống, rãnh thoát nước và nạo vét các thủy vực tiếp nhận nước thải trên địa bàn tỉnh, từng bước khắc phục ô nhiễm môi trường tại các khu dân cư; xây dựng kế hoạch phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn chuyên dùng năm 2025; tổ chức Lễ ra quân Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè 2019 và phát động Chiến dịch làm sạch môi trường, hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới 5/6 với chủ đề “Ô nhiễm không khí và hành động của chúng ta”... Theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường, trong năm 2019 các cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý 17 vụ vi phạm môi trường với số tiền phạt là 1.060,27 triệu đồng.

- Tình hình thiên tai: Thời tiết năm 2019 tương đối thuận lợi, trong năm diễn ra nhiều ngày mưa lớn nhưng thiệt hại không đáng kể, không ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của nhân dân./.

 

 

 

luat_sua_doi_ltk

Đang truy cập: 7
Trong ngày: 4
Trong tuần: 1124
Lượt truy cập: 1422825

Xin cho biết ý kiến của bạn về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc?
Tốt
Khá
Trung bình
Kém

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚCChung nhan Tin Nhiem Mang

Địa chỉ: Số 20

Lý Thái Tổ - Phường Đống Đa - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Điện thoại: 0211 3 861 139, Fax: 0211 3 843 841Email: vinhphuc@gso.gov.vn, cuctk@vinhphuc.gov.vn