.::. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, cơ sở hành chính, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn .::. .............................................................................................................................................................................................................. ........................................  

 

 

 

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Năm 2015, kinh tế thế giới tiếp tục đà phục hồi nhưng chưa bền vững với tốc độ tăng trưởng giữa các khu vực ngày càng khác biệt, một phần do giá dầu và giá một số hàng hóa giảm, tác động ở mức khác nhau đến từng khu vực. Trong nước, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát ở mức thấp, các chính sách tiền tệ, tài khóa phù hợp với diễn biến thị trường; nền kinh tế tiếp tục duy trì đà tăng trưởng nhưng môi trường kinh doanh, năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh vẫn còn thấp.

Trên địa bàn tỉnh, sản xuất lúa còn gặp khó khăn do thời tiết không thuận lợi và sâu bệnh phá hoại, năng suất, sản lượng giảm. Trong sản xuất công nghiệp, sản lượng sản phẩm xe máy, một trong những sản phẩm chủ lực của ngành công nghiệp có đóng góp lớn cho nguồn thu và tăng trưởng chung của tỉnh vẫn tiếp tục giảm mạnh, nhưng một số ngành, trong đó có ngành sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất ô tô tăng mạnh nên ngành công nghiệp vẫn tăng trưởng ở cả ba khu vực tuy mức tăng còn thấp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung  vẫn gặp nhiều khó khăn, ... Song với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh trong việc đề ra các giải pháp, cơ chế chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường đầu tư; cùng với sự nỗ lực phấn đấu, quyết tâm của các cấp, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh nên tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 của Vĩnh Phúc tiếp tục ổn định và phát triển; thu ngân sách và thu hút đầu tư đạt cao; các vấn đề an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm và có nhiều tiến bộ; đời sống nhân dân được cải thiện; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2015 theo giá so sánh dự kiến đạt 58.876 tỷ đồng, tăng 6,97% so với năm 2014. Trong đó:

- Giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 4.102,6 tỷ đồng, tăng 2,70% so với năm 2014, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,20 điểm %; riêng ngành nông nghiệp đạt 3.787 tỷ đồng, tăng 2,69%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,18 điểm %. Trong nông nghiệp, sản xuất lúa vụ đông xuân thời tiết không thuận lợi, một số diện tích lúa vào thời kỳ làm đòng gặp thời tiết rét đậm nên xảy ra hiện tượng bớt đầu bông; vụ mùa do ảnh hưởng của sâu cuốn lá, sâu đục thân trên một số diện tích lúa nên năng suất, sản lượng chung của cả năm giảm so năm trước. Diện tích, năng suất, sản lượng của một số cây trồng chính còn lại nhìn chung đề tăng. Trong đó, diện tích ngô tăng 6,64%, sản lượng tăng 7,92% so năm trước. Chăn nuôi có nhiều thuận lợi, quy mô tổng đàn gia súc, gia cầm đều tăng so với năm 2014; đặc biệt đàn bò sữa tăng mạnh do việc triển khai tích cực các dự án hỗ trợ phát triển đàn bò sữa góp phần vào tăng trưởng chung của ngành.

- Tổng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp, xây dựng đạt 29.517,1 tỷ đồng, tăng 5,91% so với năm 2014, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 3,00 điểm %. Trong đó, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp đạt 27.850,2 tỷ đồng, tăng 5,96%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 2,85 điểm %. Nhìn chung ngành công nghiệp của tỉnh tiếp tục xu hướng phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng ở cả ba khu vực; Sản lượng sản xuất của hầu hết các sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh đều tăng; riêng sản phẩm xe máy tiếp tục giảm mạnh, ảnh hưởng đến tăng trưởng của khu vực FDI và ngành công nghiệp của tỉnh.

- Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển. Giá cả thị trường ổn định, mạng lưới và cơ sở hạ tầng các trung tâm thương mại, chợ và các cơ sở kinh doanh tiếp tục được mở rộng và ngày càng hoàn thiện; các hoạt động xúc tiến thương mại diễn ra sôi động, nhiều hội chợ được tổ chức quy mô như: Hội chợ Hoa tết 2015; Hội chợ Thương mại lễ hội Tây Thiên; Hội chợ kích cầu tiêu dùng, các phiên chợ hàng Việt về nông thôn, bán hàng Việt lưu động... Tổng giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ đạt 11.853 tỷ đồng, tăng 7,60% so với năm 2014, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,52 điểm %. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 13.403,6 tỷ đồng, tăng 10,24% so với cùng kỳ, đóng góp vào mức tăng trưởng chung của tỉnh là 2,26 điểm %.

Cơ cấu kinh tế năm 2015 của tỉnh Vĩnh Phúc là: Khu vực I (Nông, lâm nghiệp và thủy sản) 9,77%; khu vực II (Công nghiệp - xây dựng) 62,12%; khu vực III (các ngành dịch vụ) 28,11% (năm 2014 tương ứng là: 10,07%; 62,21% và 27,72%).

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

a. Sản xuất nông nghiệp

* Trồng trọt:

- Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm năm 2015 đạt 96.845 ha, tăng 1,20% so với năm trước. Trong đó, tăng chủ yếu ở diện tích gieo trồng cây vụ đông, do tỉnh có chính sách hỗ trợ cho sản xuất trồng trọt cùng với sự nỗ lực của bà con nông dân. Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu như sau: Diện tích lúa cả năm toàn tỉnh đạt 58.423 ha, giảm 0,29%; năng suất đạt 55,82 tạ/ha, giảm 1,26%; sản lượng đạt 326,1 ngàn tấn, giảm 1,54% so với năm 2014; ngô đạt 16.096 ha, tăng 6,64%; năng suất đạt 43,19 tạ/ha, tăng 1,19%; sản lượng đạt 69.525 tấn, tăng 7,92%. Trong năm, một số giống ngô mới cho năng suất cao đã được đưa vào sản xuất ở một số địa phương, góp phần vào tăng sản lượng trên địa bàn tỉnh; diện tích đậu tương tăng 5,62%, năm suất tăng 6,03%, sản lượng tăng 11,99%; diện tích rau các loại tăng 0,73%; năng suất tăng 1,56%; sản lượng tăng 2,29% so với năm trước...

- Tổng diện tích các loại cây lâu năm hiện có 8.320 ha, tăng 0,70% so với năm 2014. Trong đó, diện tích cây ăn quả là 7.779 ha chiếm 93,50% diện tích các loại cây lâu năm. Các loại cây ăn quả có diện tích tăng cao hơn so với cùng kỳ như: thanh long 155 ha, tăng 6,18%; chuối 1.860 ha, tăng 1,21%; nhãn 792 ha, tăng 1%... Cây ăn quả năm nay nhìn chung ổn định, một số diện tích cây trồng thoái hoá, kém chất lượng, năng suất thấp đã được trồng mới bổ sung thay thế bằng các loại cây khác hiệu quả hơn. Trong đó có cây đu đủ, là loại cây có thời gian sinh trưởng ngắn năng suất cao, phù hợp với khí hậu của tỉnh nên diện tích năm 2015 của loại cây này đạt 153 ha, tăng 3,20%. Một số cây ăn quả giống mới sau thời gian trồng thử nghiệm đã bước đầu đem lại hiệu quả và trở thành cây trồng chính đem lại nguồn thu nhập ổn định cho bà con ở một số địa phương như cây na với diện tích 315 ha, cây chanh 103 ha...

* Chăn nuôi: Sản xuất chăn nuôi năm 2015 trên địa bàn tỉnh có nhiều thuận lợi, giá thức ăn chăn nuôi giảm, giá bán các loại sản phẩm chăn nuôi tương đối ổn định và ở mức khá, mang lại lợi nhuận cho người chăn nuôi. Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được tích cực thực hiện, công tác kiểm dịch, kiểm soát được tăng cường, thực hiện đầy đủ các quy trình, thủ tục trong quá trình kiểm dịch động vật nên không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh.

Tại thời điểm 01/10/2015:

- Đàn trâu có 20.162 con, giảm 1,51% so với cùng thời điểm năm trước. Số lượng đàn trâu giảm là do cơ giới hóa trong nông nghiệp ngày càng nhiều nên đàn trâu nuôi lấy sức cày kéo giảm, nuôi trâu lấy thịt mang lại lợi nhuận chưa cao.

- Đàn bòcó 102.950 con, tăng 3,66%. Trong đó, số bò lai tăng 4,40%, số bò sữa 8.733 con, tăng 28,20%. Đàn bò sữa tăng cao chủ yếu là do tỉnh có các chương trình hỗ trợ phát triển chăn nuôi bò sữa. Mặt khác hiện nay nuôi bò sữa đang đem lại thu nhập cao nên được nuôi tập chung ở một số huyện có điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi như Vĩnh Tường, Yên Lạc, Lập Thạch, Tam Đảo.

- Đàn lợn (không tính lợn sữa) có 547.739 con, tăng 7,50%. Trong đó, lợn thịt 454.263 con, chiếm 82,90%; lợn nái 92.130 con, chiếm 16,80% tổng đàn lợn. Năm 2015 giá lợn hơi luôn ổn định và có lãi cho người chăn nuôi nên các hộ chăn nuôi lớn tích cực đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Hiện nay chăn nuôi dần đi vào sản xuất lớn, số lượng trang trại và gia trại chăn nuôi lợn đều tăng, nhiều trang trại đầu tư nuôi lợn nái và lợn nuôi thịt theo qui mô lớn.

- Tổng đàn gia cầm có 8.283 nghìn con, tăng 4,62% so với cùng thời điểm. Trong đó, đàn gà 7.194 nghìn con, tăng 7,30 %; vịt, ngan, ngỗng 1.090 nghìn con. Số lượng đàn gia cầm tăng là do trong năm không có dịch bệnh lớn nào xảy ra, mặt khác giá các sản phẩm gia cầm trong năm luôn ở mức có lãi cho người chăn nuôi nên các hộ đã tích cực đầu tư, mở rộng quy mô.

b. Sản xuất lâm nghiệp:

Diện tích rừng trồng mới tập trung trên địa bàn tỉnh năm 2015 đạt 643 ha, tăng 1,50% so với năm trước. Trong đó, rừng sản xuất 559 ha, rừng đặc dụng 26 ha, rừng phòng hộ 58 ha. Diện tích rừng được chăm sóc là 464 ha, đạt 100% kế hoạch, tăng 12,06% so với năm trước. Công tác bảo vệ rừng của tỉnh luôn được các đơn vị và các địa phương duy trì thường xuyên. Công tác phòng chống cháy rừng tuy đã được các ngành chức năng chỉ đạo tích cực, nguy cơ cháy rừng luôn được cảnh báo, song do thời tiết hanh khô ở những tháng đầu năm, giữa năm nắng nóng kéo dài nên từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 3 vụ cháy rừng, diện tích cháy 10,4 ha, so với năm trước giảm 11 vụ và giảm 3,6 ha.

 c. Sản xuất thuỷ sản:

Năm 2015, thời tiết tương đối thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản phát triển, không có dịch bệnh lớn xảy ra, chi phí trong nuôi trồng thủy sản không cao nên bà con tích cực đầu tư cũng như đi vào thâm canh tăng năng suất. Một số hộ tiếp tục nuôi trồng thuỷ sản khác như: ba ba, cá sấu nhưng có diện tích ít.

Diện tích nuôi trồng năm 2015 đạt 6.963 ha, tăng 0,29% so với năm trước. Trong đó, diện tích nuôi cá 6.803 ha (chiếm 97,70% diện tích); nuôi trồng thuỷ sản khác 3 ha; diện tích ươm giống 157 ha. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2015 không có nhiều biến động, do các huyện, thị, thành cơ bản đã khai thác hết diện tích nuôi trồng có thể. Sản lượng thủy sản năm 2015 dự kiến đạt 19.758 tấn, tăng 2,90% so với năm trước. Trong đó, sản lượng nuôi trồng đạt 17.781 tấn, tăng 3,44%; sản lượng khai thác đạt 1.977 tấn, giảm 1,69% so với cùng kỳ.

3. Sản xuất công nghiệp

a. Chỉ số sản xuất và sản phẩm công nghiệp

Dự kiến, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2015 tăng 1,31% so với năm 2014. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 15,51%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,27%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 14,60%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải giảm 2,88% so với năm trước. Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong năm đã có xu hướng hồi phục và lấy lại đà tăng trưởng.

Một số ngành có mức tăng trưởng tương đối cao so với năm trước như: Ngành sản xuất linh kiện điện tử tăng 52,33%, đây là ngành có mức tăng cao nhất về quy mô. Sự phát triển của công nghệ thông tin trong những năm gần đây cùng với những chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt đã thu hút một số lượng lớn doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này góp phần đem lại giá trị cao cho toàn ngành; ngành sản xuất xe có động cơ tăng 22,61%, nguyên nhân do nhu cầu sử dụng ô tô của người dân tăng lên, cùng với việc các nhà sản xuất liên tục đưa ra thị trường các mẫu xe phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng với giá cả hợp lý đã làm cho sản phẩm của ngành có mức tiêu thụ tốt trong năm, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp cho toàn ngành; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 17,24%. Tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm với tiêu chí nâng cao chất lượng, phục vụ lợi ích người tiêu dùng nên sản phẩm ngày càng có chỗ đứng trên thị trường, được người tiêu dùng chấp nhận; ngành sản xuất trang phục tăng 9,68% so năm trước. Các doanh nghiệp trong ngành luôn cập nhật xu hướng thời trang trong khu vực cũng như trên thế giới, đáp ứng kịp thời những đơn đặt hàng trong và ngoài nước. Đồng thời với những chính sách thu hút đầu tư của tỉnh một số doanh nghiệp mới tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực này, tạo ra giá trị sản xuất của ngành ngày càng tăng.

Trong năm, 3 ngành công nghiệp có chỉ số giảm so với năm trước là: ngành dệt giảm 0,92%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và sử lý rác thải giảm 2,88%; ngành sản xuất phương tiện vận tải giảm 12,58%. Thực tế hiện nay, thị trường tiêu thụ xe máy đang ở mức bão hòa, số xe máy trên đầu người đã ở mức cao, nhu cầu mua sắm xe máy giảm làm cho sản lượng sản xuất giảm; kéo theo sản lượng của các doanh nghiệp tham gia công nghiệp phụ trợ như sản xuất phụ tùng xe máy bị sụt giảm đáng kể.

Các ngành còn lại đều đạt mức tăng trưởng khá so với năm 2014.

Dự kiến năm 2015, các đơn vị sản xuất công nghiệp trên địa bàn sản xuất được: 291.187 m3 đá các loại, tăng 25,60% so với năm trước; 168.308 tấn thức ăn gia súc, tăng 23,91%; 51.184 ngàn quần áo mặc thường, tăng 9,68%; 79.008 ngàn m2 gạch ốp lát, tăng 3,68%; 979  triệu viên gạch xây dựng bằng đất sét, tăng 10,54%; dịch vụ sản xuất linh kiện điện tử 5.543 tỷ đồng, tăng 52,33%; 51.700 xe ô tô các loại, tăng 22,61%; 1.910.692 xe máy các loại, giảm 12,58%; điện thương phẩm đạt 1.920 triệu kwh, tăng 14,60%; nước thương phẩm đạt 13.976 ngàn m­3, tăng 10,85% so với năm 2014...

b) Chỉ số tiêu thụ, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Với những yếu tố thuận lợi cùng với những giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh của UBND tỉnh và sự cố gắng tìm kiếm, mở rộng thị trường của các doanh nghiệp, hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mười một tháng tăng 6,96% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành sản xuất xe có động cơ tăng 23,41%; ngành dệt tăng 15,64%; ngành sản xuất trang phục tăng 11,28%...

Tại thời điểm 01/12/2015, chỉ số tồn kho giảm 4,39% so với tháng trước và tăng 12,61% so với cùng kỳ. Các ngành có chỉ số hàng tồn kho giảm so cùng thời điểm năm trước là: Ngành sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 93,57%; ngành sản xuất xe có động cơ giảm 6,65%; ngành sản xuất trang phục giảm 11,44%. Một số ngành có xu hướng tăng như: Ngành dệt tăng trên 2 lần; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 37,06%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 9,15%...

c) Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh tại thời điểm 01/12/2015 tăng 1,02% so với tháng trước và tăng 16,01% so với cùng kỳ năm trước; dự kiến cả năm 2015 tăng 12,47%. Theo ngành công nghiệp cấp I, ngoài ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số sử dụng lao động trong tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước (tăng 13,18%), các ngành còn lại tăng không đáng kể. Theo thành phần kinh tế, doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 3,83%; doanh nghiệp nhà nước tăng 2,40%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,12% so năm 2014.

4. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cao về số lượng và tăng khá về vốn đăng ký so với năm 2014. Nguyên nhân chủ yếu do nền kinh tế đang hồi phục, các cơ hội đầu tư được mở ra khi Chính phủ, tỉnh Vĩnh Phúc có những giải pháp mạnh mẽ tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp về cải cách các thủ tục hành chính, các chính sách thuế, lãi suất, đất đai... và nhất là kể từ ngày 01/7/2015 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực, trong đó thủ tục liên thông trong cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế được rút ngắn từ 5 ngày xuống 3 ngày làm việc. Trong năm, toàn tỉnh có 47 doanh nghiệp làm thủ tục giải thể doanh nghiệp, giảm 4% so với năm 2014 và đã có 102 doanh nghiệp đã tạm dừng hoạt động trở lại sản xuất kinh doanh.

5. Bán lẻ hàng hoá và các ngành dịch vụ

Năm 2015, mặc dù nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nhưng tình hình kinh doanh thương mại và dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh vẫn tiếp tục duy trì được sự phát triển. Nhiều đơn vị, cơ sở đã mở rộng ngành nghề, cải tạo và đầu tư mới cơ sở vật chất, đa dạng hoá các mặt hàng, phương thức kinh doanh nên lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ đảm bảo đủ nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Trong năm, có nhiều cơ sở lớn kinh doanh có hiệu quả cao như BigC, Co.opmart, HC, Media Mart, Thế giới di động...góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hoá, phục vụ tốt nhu cầu thị trường, mang lại diện mạo mới cho kinh doanh thương mại và dịch vụ của tỉnh.

 Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả năm 2015 dự kiến đạt 32.235 tỷ đồng, tăng 10,04% so với năm 2014. Trong đó: kinh tế nhà nư­ớc thực hiện đạt 148 tỷ đồng, bằng 81,98% năm trước; kinh tế cá thể 18.037 tỷ đồng, tăng 10,76%; kinh tế tư nhân 12.280 tỷ đồng, tăng 10,13%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.732 tỷ đồng, tăng 5,62% so với năm 2014. Phân theo nhóm ngành kinh tế, trong  năm ngành thương nghiệp bán lẻ thực hiện 27.696 tỷ đồng, tăng 9,38%; kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 2.899 tỷ, tăng 10,58%, các ngành dịch vụ tiêu dùng khác thực hiện 1.640 tỷ, tăng 10,92% so với năm trước.

Kinh doanh vận tải trên địa bàn tỉnh ổn định và tăng trưởng cả về khối lượng vận chuyển, luân chuyển và doanh thu do nhu cầu vận chuyển phục vụ các hoạt động sản xuất, kinh doanh tăng. Hoạt động vận tải đã đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển hàng hoá cho sản xuất, kinh doanh và nhu cầu đi lại của nhân dân. Vận tải hàng hoá đạt 25,19 triệu tấn, bằng 1.691 triệu tấn.km, tăng 8,26% về tấn và tăng 8,07% về tấn.km; vận tải hành khách đạt 21,01 triệu lượt hành khách, bằng 1.407 triệu hành khách.km, tăng 6,27% về hành khách và tăng 6,79% về hành khách.km. Doanh thu vận tải đạt 3.064 tỷ đồng, tăng 12,37% so năm 2014, trong đó doanh thu vận tải đường bộ đạt 2.651 tỷ đồng, tăng 11,35% và chiếm 86,52% tổng doanh thu vận tải trên địa bàn.

II. KIỀM CHẾ LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ

1. Chỉ số giá tiêu dùng

Tháng Mười hai, thị trường hàng hoá trên địa bàn tỉnh sôi động hơn để chuần bị cho các dịp lễ tết cuối năm như Noel, Tết Dương lịch nhưng nhìn chung giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và không có nhiều biến động. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,05% so với tháng trước và tăng 0,09% so vớí cùng tháng năm trước. Bình quân cả năm 2015 CPI tăng 0,12% so bình quân năm 2014. Nguyên nhân chính làm CPI tháng này tăng là do giá một số mặt hàng thiết yếu tăng như: Lương thực tăng 0,57%; thực phẩm tươi sống tăng  0,49%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,64%... Các nhóm còn lại giá tương đối ổn định và tăng giảm không đáng kể.

Diễn biến giá của các nhóm hàng chính trong tháng 12 năm 2015 như sau:

- Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống trong tháng tăng 0,55% so với tháng trước. Do giá lương thực, thực phẩm thiết yếu đều tăng nên chỉ số chung của nhóm tăng;

- Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,64%. Mặc dù nguồn cung hàng hoá cơ bản được đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, nhưng do thời tiết đã bắt đầu bước vào mùa Đông nên nhu cầu sắm sửa quần áo ấm của người dân tăng lên khiến cho giá của một số mặt hàng trong nhóm tăng nhẹ như: Nhóm quần áo may sẵn tăng 0,55%, nhóm may mặc khác tăng 3,84%, nhóm giày dép trẻ em và người lớn cũng đều tăng từ 0,60 đến 0,67%;

- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,18%. Chỉ số giá nhóm này giảm chủ yếu ở mặt hàng dầu hoả giảm 2,59%; giá thép giảm  từ 1,19% đến 1,57% do giá phôi thép trên thế giới giảm, giá các mặt hàng xi măng cũng giảm 0,64% đến 0,87% do lượng tồn kho nhiều;

- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,39%. Do thời tiết chuyển lạnh, lại đang vào mùa cưới nên nhu cầu mua sắm giường tủ, bàn ghế và các thiêt bị, đồ dùng gia đình phục vụ mùa Đông tăng lên. Chỉ số của nhóm tăng chủ yếu ở một số mặt hàng như: Đệm mút tăng 3,21%; giường gỗ ép tăng 2,95%; bộ ghế sofa tăng 8,40%;

- Nhóm giao thông giảm 1,81%. Chỉ số nhóm giảm do sự điều chỉnh giá xăng dầu giảm của tập đoàn xăng dầu Việt Nam vào các ngày 18/11 và 03/12 năm 2015. Như vậy, với riêng mặt hàng xăng RON 92, từ đầu năm đến nay đã có 6 lần tăng giá với mức tăng 5.840 đồng/lít, trong khi đó, giảm giá xăng 10 lần với tổng mức giảm gần 6.860 đồng/lít. Và đây là lần giảm thứ 4 liên tiếp trong vòng 2 tháng qua;

- Nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,15%.Là những tháng cuối năm  nên nhu cầu làm đẹp của chị em tăng cao dẫn đến giá cả các dịch vụ làm đẹp đều tăng từ 7,69 đến 10,00% so với tháng trước.

Giá vàng tháng Mười hai giảm nhẹ, chỉ số giá trong tháng giảm 1,50% so với tháng trước; giá vàng bình quân trên thị trường tự do là 3.080 nghìn đồng/chỉ. Ngược chiều với giá vàng, giá Đô la Mỹ trên thị trường tự do có biến động tăng nhẹ (tăng 0,74%) so với tháng trước; giá bán bình quân phổ biến ở mức 21.562 đồng/USD.

2. Đầu tư, xây dựng

a. Tình hình thực hiện các nguồn vốn đầu tư

 Năm 2015, nền kinh tế ổn định và phát triển, song vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, ngay từ đầu năm các cấp lãnh đạo đã có sự chỉ đạo trong định hướng đầu tư và thực hiện các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ bản nên đã hạn chế việc đầu tư dàn trải. Số công trình mới khởi công ít hơn, chủ yếu là các công trình trọng điểm, các công trình dự án phục vụ xây dựng nông thôn mới. Nhờ đó, trong năm nhiều dự án trọng điểm, dự án về nông thôn mới được tập trung đầu tư đã hoàn thành đưa vào sử dụng đã phát huy hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Dự tính cả năm 2015, tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh ước thực hiện 20.909,8 tỷ đồng tăng 7,61% so với năm trước; Trong đó, vốn Nhà nước Trung ương 208,6 tỷ đồng; vốn nhà nước địa phương 5.455,3 tỷ đồng; vốn ngoài nhà nước 10.937,6 tỷ đồng; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 4.236,1 tỷ đồng

b. Công tác xúc tiến và thu hút đầu tư

 Tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, trong đó coi trọng hoạt động xúc tiến đầu tư tại chỗ bằng giải pháp quan tâm và giải quyết ngay các khó khăn cho doanh nghiệp đang đầu tư tại tỉnh. Tiếp và làm việc với nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu môi trường, cơ hội đầu tư tại tỉnh. Chỉ đạo các cấp, các ngành tổng kết Đề án Cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) giai đoạn 2013-2015. Luật Đầu tư năm 2014 (có hiệu lực từ 01/7/2015) được chỉ đạo triển khai tích cực. Luật Đầu tư 2014 đã giảm thiểu đáng kể những thủ tục, giấy tờ cho nhà đầu tư, minh bạch hóa các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện (Giấy chứng nhận đầu tư chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên 51% và chỉ điều chỉnh các dự án đầu tư, còn việc thành lập doanh nghiệp sẽ do Luật Doanh nghiệp điều chỉnh).

Kết quả, từ đầu năm đến cuối tháng 11/2015, tỉnh đã cấp mới Giấy chứng nhận đầu tư cho 67 dự án, tăng cao so với năm 2014 về số vốn đăng ký, vượt xa kế hoạch đề ra  Trong đó:

- 41 dự án DDI, với số vốn đầu tư đăng ký là 9.084,5 tỷ đồng. Lũy kế đến cuối tháng 11/2015, toàn tỉnh có 598 dự án DDI còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký là 43.969,9 tỷ đồng;

- 26 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư đăng ký 264,37 triệu USD. Luỹ kế đến cuối tháng 11/2015, trên địa bàn tỉnh có 202 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký là 3.207 triệu USD.

c. Thu hút các dự án ODA

Công tác vận động, thu hút các dự án ODA được UBND tỉnh tập trung chỉ đạo quyết liệt, đã chuẩn bị rất kỹ các nội dung tổ chức làm việc trực tiếp và tham gia các diễn đàn, hội thảo,… về chính sách của nhà tài trợ cũng như chính sách của Chính phủ. Kết quả, đến nay đã triển khai các thủ tục vận động 4 dự án ODA gồm: Dự án quản lý nguồn nước và ngập lụt tỉnh Vĩnh Phúc với tổng vốn đầu tư 220 triệu USD, trong đó vốn ODA là 150 triệu USD và vốn đối ứng 70 triệu USD; Dự án phát triển đô thị loại II – thành phố xanh Vĩnh Yên với tổng vốn đầu tư 145 triệu USD, trong đó vốn ODA là 102 triệu USD và vốn đối ứng là 43 triệu USD; Dự án Cầu Đầm Vạc với tổng vốn đầu tư 30 triệu USD, trong đó vốn ODA 25 triệu USD và vốn đối ứng 5 triệu USD; dự án Bệnh viện sản nhi và Trung tâm ung bướu.

Hiện nay trên địa bản tỉnh đang triển khai thực hiện 04 dự án sử dụng vốn ODA gồm: Dự án Cải thiện môi trường đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc, dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn bền vững các tỉnh phía Bắc, dự án nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc, dự án nâng cao chất lượng an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát sinh chương trình khí sinh học. Cho đến nay, các dự án đã giải ngân đạt trên 590 tỷ đồng.

d. Hoạt động xây dựng

Trong những năm qua, Vĩnh Phúc đã tăng cường nguồn vốn đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm. Riêng trong năm 2015, tỉnh bố trí 1.050 tỷ đồng để quyết toán cho 7 công trình và triển khai xây dựng 18 công trình trọng điểm, đây là số vốn bố trí cao nhất cho các dự án trọng điểm trong 5 năm qua. Nhờ làm tốt công tác chỉ đạo và nguồn vốn được giải ngân kịp thời, nhiều công trình trọng điểm đã kịp hoàn thành đưa vào sử dụng đúng dịp kỷ niệm 65 năm thành lập tỉnh như: Giai đoạn 1 Khu trung tâm lễ hội Tây Thiên, Nhà hát tỉnh, Quảng trường Hồ Chí Minh, Văn Miếu, đường Hợp Thịnh - Đạo Tú... Tuy vậy vẫn cò một số dự án như: đường Hợp Châu - Đồng Tĩnh, đường Nguyễn Tất Thành kéo dài, cầu Đầm Vạc... do không hoàn thiện kịp thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản nên sẽ phải chuyển nguồn kế hoạch. Tổng giá trị ngành xây dựng năm 2015 theo giá hiện hành ước đạt 8.572 tỷ đồng, tăng 8,26%; theo giá so sánh đạt 6.680 tỷ đồng, tăng 5,10% so với năm 2014.

3. Tài chính, tín dụng

Năm 2015, tỉnh đã tập trung chỉ đạo làm tốt công tác quản lý thu, chủ động rà soát từng khoản thu, kiểm tra, thanh tra việc hoàn thuế giá trị gia tăng bảo đảm đúng quy định, tăng cường biện pháp chống chuyển giá, xử lý nợ đọng, trốn thuế, kê khai không trung thực các khoản phải nộp NSNN, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm,… đồng thời khai thác tốt các nguồn thu. Do vậy, năm 2015, hầu hết các khoản thu nội địa tăng so với năm 2014 và vượt dự toán đề ra. Đặc biệt có khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu tăng khá như: thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng tăng 21,37%, do tiêu thụ ô tô của 2 công ty Toyota và Honda tăng cao so với năm trước, góp phần tăng tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn. Dự kiến tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2015 đạt 24.293,5 tỷ đồng vượt dự toán đề ra, tăng 15,25% so với năm 2014. Chi ngân sách địa phương đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi của tỉnh, dự kiến cả năm đạt 21.162,7 tỷ đồng vượt dự toán và tăng 23,45% so với năm 2014.

Dịch vụ tín dụng ngân hàng cơ bản đáp ứng được cho sự phát triển của địa phương và có tăng trưởng khá. Nguồn vốn tín dụng cho phát triển đầu tư, kinh doanh đã và đang khai thông góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hộ dân, hỗ trợ thị trường, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Các chương trình kết nối ngân hàng và doanh nghiệp, chương trình bình ổn thị trường, chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ cho vay nhà ở xã hội... được các tổ chức tín dụng trên địa bàn tiếp tục triển khai tốt. Mặt bằng lãi suất cho vay được điều chỉnh giảm khoảng 0,2-0,5%/năm so với cuối năm 2014 đã góp phần hỗ trợ cho sản xuất, kinh doanh. Thực hiện các chính sách hỗ trợ tín dụng và lãi suất cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên, như phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo việc làm, giảm nghèo,... đạt kết quả tốt. Công tác huy động vốn được triển khai tích cực, đưa ra nhiều giải pháp phù hợp. Tính đến hết tháng 11/2015, nguồn vốn huy động đạt 37.292 tỷ đồng, tăng 20,30%; tổng dư nợ đạt 31.527 tỷ đồng, tăng 14,69% so với cuối năm 2014. Xử lý nợ xấu được triển khai quyết liệt nên tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ chỉ còn 1,41%.

4. Hoạt động xuất, nhập khẩu

Mặc dù điều kiện còn có nhiều khó khăn nhưng trong năm qua đã có thêm nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hóa do vậy hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn có sự tăng trưởng khá. Dự kiến năm 2015, Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1.593 triệu USD tăng 10,21% so năm trước. Trong đó, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 1.542 triệu USD, tăng 15,32 %; kinh tế trong nước 51 triệu USD, bằng 47,01%. Hàng  xuất khẩu trong năm chủ yếu là các mặt hàng: điện tử 627 triệu USD, tăng 20,94%; phương tiện vận tải và phụ tùng 467 triệu USD, tăng 6,31%; dệt may 301 triệu USD, tăng 35,28% so với năm 2014.

Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2015 đạt 2.325 triệu USD, tăng 16,42% so với năm trư­ớc. Trong đó, kinh tế trong nước đạt 150 triệu USD, tăng 44,27%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.175 triệu USD, tăng 14,90% so năm trước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng  chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị hàng nhập khẩu. Hàng nhập khẩu trong năm chủ yếu là các nguyên vật liệu để gia công, sản xuất như: linh kiện, phụ tùng ô tô, xe máy, vải may mặc, hàng điện tử, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu chế biến.

III. BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Y TẾ, VĂN HOÁ VÀ CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI KHÁC

1. Lao động, việc làm

Công tác dạy nghề, giải quyết việc làm được chú trọng, tỉnh tiếp tục triển khai các nội dung của Nghị quyết số 37/NQ-HĐND ngày 19/12/2011 của HĐND tỉnh về một số chính sách hỗ trợ Đào tạo nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo giai đoạn 2012-2015 và thực hiện kế hoạch số 1918/KH-UBND ngày 09/4/2015 về dạy nghề, bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho người lao động năm 2015. Tổ chức tốt các sàn giao dịch việc làm, hoàn thiện cơ chế hỗ trợ cho lao động đi xuất khẩu, thực hiện chương trình xuất khẩu lao động, trong đó tập trung vào thị trường có tiềm năng như Hàn Quốc, Nhật Bản…Năm 2015 số lao động được giải quyết việc làm đạt kế hoạch đề ra; xuất khẩu lao động tăng khá so với năm 2014.

 Công tác dạy nghề tiếp tục được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành. Chất lượng dạy và học tiếp tục  được nâng cao. Tỉnh đã tổ chức thành công Hội giảng giáo viên dạy nghề năm 2015, đã chọn ra 4 thí sinh có thành tích cao nhất tham dự Hội giảng Giáo viên dạy nghề toàn quốc năm 2015. Tính đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh hiện có 32 cơ sở dạy nghề, trong đó có 08 trường cao đẳng nghề; 05 trường trung cấp nghề và 19 trung tâm có chức năng dạy nghề.

2. Công tác an sinh xã hội

Trong năm, tỉnh đã giải quyết kịp thời các chế độ chính sách đối với người có công, gia đình chính sách và các đối tượng bảo trợ xã hội; thực hiện tốt quy định hỗ trợ hộ nghèo về giá điện; xây dựng kế hoạch trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2013-2020 trên địa bàn tỉnh. Triển khai và thực hiện tốt Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở.

Tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp thực hiện các quy định về tiền lương, bảo hiểm xã hội cho người lao động gắn với tuyên truyền pháp luật lao động, theo dõi sát tình hình, kịp thời xử lý có hiệu quả để ngăn ngừa đình công, lãn công trái pháp luật.

Hoạt động bảo trợ xã hội, giảm nghèo tiếp tục được quan tâm, chú trọng. Các chính sách giảm nghèo được thực hiện đúng theo quy định như: cấp giấy chứng nhận hộ nghèo, chính sách tín dụng lãi suất thấp, hỗ trợ mệnh giá bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo,... Năm 2015, ước tỷ lệ hộ nghèo còn 2,5% giảm 1,13% so với năm 2014.

Công tác Bảo hiểm tiếp tục được được quan tâm thực hiện theo Chương trình hành động số 49-CTr/TU của Tỉnh ủy. Chế độ chính sách BHXH, BHYT được giải quyết kịp thời, đúng định mức, đúng đối tượng thụ hưởng. Ước đến cuối năm 2015, tỷ lệ bao phủ người dân có BHYT đạt 71,1%, tăng 1,8% so với năm 2014.

3. Giáo dục, đào tạo

UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các ngành triển khai thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Hệ thống cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực tiếp tục được hoàn thiện. Mạng lưới giáo dục, đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được nâng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo, thi cử và kiểm định chất lượng có đổi mới. Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, đào tạo. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý có bước phát triển. Xã hội hóa giáo dục, đào tạo được đẩy mạnh.

Triển khai đánh giá học sinh tiểu học theo yêu cầu mới đạt kết quả tốt; triển khai nhân rộng Dự án Mô hình trường học mới (VNEN) cho 25 trường tiểu học; thực hiện Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục và đào tạo giai đoạn 2014 - 2020; ban hành Kế hoạch triển khai Đề án Hỗ trợ, phát triển nhóm trẻ độc lập tư thục ở khu vực khu công nghiệp đến 2020; làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức thành công kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2015 trên địa bàn tỉnh.

Chất lượng giáo dục tiếp tục được giữ vững ở mức cao. Năm học 2014-2015, tỷ lệ học sinh tiểu học hoàn thành chương trình tiểu học theo yêu cầu mới  và tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS đạt cao (trên 99%); có nhiều học sinh, sinh viên đạt giải cấp quốc gia và khu vực, đặc biệt trong cuộc thi Nghiên cứu khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học cấp quốc gia năm 2015 - Khu vực phía Bắc, Vĩnh Phúc đạt 2 giải nhất và 5 dự án đạt giải toàn cuộc. Công tác phân luồng học sinh sau THCS  được quan tâm và duy trì, tỷ lệ phân luồng học sinh tốt nghiệpTHCS vào THPT đạt 70,8%; số còn lại học tại các trường nghề và bổ túc THPT nghề. Công tác phổ cập giáo dục được củng cố và duy trì, chất lượng phổ cập mẫu giáo cho trẻ mầm non 5 tuổi, phổ cập tiểu học và phổ cập THCS tiếp tục được nâng lên.

4. Công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng

UBND tỉnh đã chỉ đạo Ngành Y tế triển khai thực hiện Kế hoạch thí điểm đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có trình độ ngoại ngữ đạt tiêu chuẩn; Thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề  tại cơ sở khám chữa bệnh công lập.

Năm 2015, Ngành Y tế đã chủ động theo dõi, giám sát tình hình bệnh dịch, nhất là bệnh dịch MERS-CoV và dịch sốt xuất huyết; tập trung xây dựng kế hoạch phòng chống dịch, tập huấn chuyên môn cho cán bộ y tế từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện và xã; tổ chức truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng chống dịch bệnh, vận động nhân dân chủ động tiêm vắc-xin phòng bệnh, vệ sinh môi trường không để dịch bệnh lây lan ra cộng đồng. Trong năm, trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh lớn xảy ra, không có bệnh nhân tử vong do sốt xuất huyết.

Chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, công tác quản lý bệnh viện đã có sự cải thiện ở cả 3 tuyến. Việc ứng dụng một số kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị tiếp tục được triển khai. Triển khai thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân theo kế hoạch đề ra.

Công tác tuyên truyền về Luật An toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành về ATVSTP trong cộng đồng được thực hiện thường xuyên. Công tác thanh, kiểm tra các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn tỉnh và lấy mẫu xét nghiệm chất lượng ATVSTP được thực hiện hiệu quả. Công tác dân số, chăm sóc và bảo vệ trẻ em được triển khai một cách tích cực và đồng bộ trên địa bàn tỉnh; các chỉ tiêu phát triển về y tế, dân số, chăm sóc trẻ em nhìn chung đạt kết quả tốt, đạt kế hoạch đề ra.

Việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và công tác đào tạo bồi dưỡng nhân lực của ngành y tế được tỉnh tập trung quan tâm hơn. 

5. Hoạt động văn hoá, thể thao

Công tác tuyên truyền, tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật, vui chơi giải trí, tổ chức lễ hội truyền thống để chào mừng các ngày lễ của đất nước, của tỉnh, chào mừng Đại hội Đảng các cấp được diễn ra sôi nổi, rộng khắp, đúng quy định thu hút được đông đảo nhân dân tham gia như: Triển lãm tranh cổ động tấm lớn chào mừng 85 năm ngày thành lập Đảng và 65 năm ngày thành lập tỉnh Vĩnh Phúc; Chương trình biểu diễn nghệ thuật chào mừng kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ IV với chủ đề "Ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi quê hương đất nước, quê hương Vĩnh Phúc"; Khai mạc vòng sơ khảo Liên hoan văn nghệ khu vực các tỉnh/thành phố phía Bắc; Chương trình nghệ thuật chào mừng Quốc khánh 02/9 với chủ đề “70 năm khúc hát tự hào” và bắn pháo hoa phục vụ đông đảo nhân dân trên địa bàn tỉnh. Các hoạt động văn hóa tại cơ sở cũng đã có nhiều khởi sắc.

Các hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm, UBND tỉnh đã lập hồ sơ đề nghị Chính phủ công nhận Di sản Quốc gia đặc biệt đối với Khu di tích danh thắng Tây Thiên và Chùa - Tháp Bình Sơn. Tổ chức khánh thành giai đoạn I và đưa vào khai thác sử dụng khu di tích danh thắng Tây Thiên, Văn Miếu tỉnh, nhà hát và Quảng trường Hồ Chí Minh phục vụ phát triển du lịch và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.

Các hoạt động thể dục thể thao diễn ra sôi nổi. Duy trì ổn định các lớp đào tạo năng khiếu thể thao và chế độ tập luyện thường xuyên của các đội tuyển. Tham gia nhiều giải thi đấu thể thao trong nước và khu vực đạt kết quả cao. Bên cạnh đó, Tỉnh đã tổ chức đăng cai thành công Giải Việt dã Báo Tiền phong lần thứ 56 và hưởng ứng Lễ phát động ngày chạy Olimpic Việt Nam năm 2015.

Hoạt động các cơ quan báo chí, xuất bản, đài phát thanh, truyền hình đã bám sát định hướng và làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền các chủ đề trọng tâm, nhất là tuyên truyền phục vụ Đại hội Đảng các cấp; nhiều ấn phẩm được cải thiện cả về hình thức và nội dung đáp ứng tốt nhiệm vụ chính trị của tỉnh và góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân.

6. Tình hình giao thông

Tính đến ngày 15/12/2015, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 47 vụ tai nạn giao thông làm 37 người chết và 21 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 6%, số người chết giảm 5,1%, số người bị thương giảm 8,7%.

Trong năm 2015 Công an tỉnh đã tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, kiểm soát an toàn giao thông, tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm. Để đảm bảo tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn toàn tỉnh, nhất là trước khi bước vào dịp tết Dương lịch và Tết nguyên đán 2016, Công an tỉnh triển khai đợt cao điểm về trật tự ATGT cuối năm 2015, lực lượng CSGT Công an tỉnh và công an các huyện, thành phố, thị xã đồng loạt ra quân tăng cường kiểm tra, kiểm soát khép kín địa bàn nhằm phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm, khảo sát những điểm phức tạp về TTATGT để tham mưu giải tỏa, xử lý; thực hiện nghiêm túc việc thông báo người vi phạm TTATGT đến các cơ quan, trường học, nơi cư trú.

7. Thiệt hại do thiên tai

Năm 2015, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc chịu ảnh hưởng của 5 đợt mưa lớn có kèm theo bão lốc làm 01 người chết, làm 31 ngôi nhà, 13 công trình phụ bị sạt lở, tốc mái; 106,5 ha lúa; 24,5 ha mạ; 1.540,8 ha hoa màu bị ngập, hư hỏng; 6.595 m tường rào bị đổ 1.250 con gia cầm bị chết; 15.000 cây lấy gỗ bị đổ gãy; 6.783 m đường xe cơ cơ giới bị sạt lở, bị cuốn trôi… Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm ước tính 26.678 triệu đồng.

8. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

Tháng 12/2015, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ cháy: 01 vụ cháy quán Karaoke Trà My ở xã Đạo Tú – huyện Tam Dương, nguyên nhân cháy đang được ngành Công an điều tra làm rõ; 01 vụ cháy Kho bếp - Xưởng sản xuất gương - cụm công nghiệp Tề Lỗ - huyện Yên Lạc, nguyên nhân cháy do chập điện. Hai vụ cháy ước tính thiệt khoảng 230 triệu đồng. Như vậy, năm 2015, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 22 vụ cháy, thiệt hại ước tính khoảng 13.100 triệu đồng.

Trong tháng, các cơ quan chức năng đã phát hiện 3 vụ vi phạm quy định về môi trường. Số vụ vi phạm bị xử lý là 3 vụ với tổng số tiền phạt 101,5 triệu đồng. Cả năm 2015, toàn tỉnh đã phát hiện 33 vụ vi phạm quy định về vệ sinh môi trường, đã xử lý 33 vụ với tổng số tiền phạt 717 triệu đồng./.

 

luat_sua_doi_ltk

Đang truy cập: 11
Trong ngày: 56
Trong tuần: 976
Lượt truy cập: 1405710

Xin cho biết ý kiến của bạn về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc?
Tốt
Khá
Trung bình
Kém

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚCChung nhan Tin Nhiem Mang

Địa chỉ: Số 20

Lý Thái Tổ - Phường Đống Đa - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Điện thoại: 0211 3 861 139, Fax: 0211 3 843 841Email: vinhphuc@gso.gov.vn, cuctk@vinhphuc.gov.vn