.::. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, cơ sở hành chính, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn .::. .............................................................................................................................................................................................................. ........................................  

Tình hình kinh kế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc Quí I năm 2018 Tỉnh Vĩnh Phúc

Lời văn

Số liệu

Quý I năm 2018, mặc dù còn có những khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Tăng trưởng kinh tế đạt khá; các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm; quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Kết quả cụ thể các ngành, lĩnh vực như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) Quý I năm 2018 theo giá so sánh 2010 đạt 17.225 tỷ đồng, tăng 6,81% so Quý I năm 2017. Trong đó:

- Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 1.147 tỷ đồng, tăng 0,38%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,03 điểm %. Trong nông nghiệp, do diện tích gieo trồng vụ đông giảm 993 ha, nên giá trị ngành trồng trọt giảm 5,18% so cùng kỳ; sản xuất chăn nuôi, ngoài sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng giảm 0,24%, sản lượng chăn nuôi còn lại đều tăng so cùng kỳ, trong đó sản lượng trâu bò tăng 4,60%, sản lượng thịt gia cầm tăng 7%, sản lượng trứng gia cầm tăng 5,87%, sữa bò tăng 18,19%... do đó tăng trưởng của ngành chăn nuôi đạt 3,5%. Tính chung ngành nông nghiệp tăng 0,20% so với cùng kỳ. Các ngành lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục ổn định và phát triển.  

- Ngành công và xây dựng đạt 8.555 tỷ đồng, tăng 11,53%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 5,49 điểm %; riêng ngành công nghiệp đạt 7.974 tỷ đồng, tăng 11,40%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 5,06 điểm %. Ba ngành công nghiệp lớn của tỉnh là ngành sản xuất ô tô, xe máy và linh kiện điện tử tiếp tục chiếm tỷ trọng cao trong ngành công nghiệp và đạt mức tăng trưởng khá. Trong đó, sản lượng sản xuất ô tô 3 tháng đạt 14.384 xe, tăng 7,43%; sản lượng sản xuất xe máy đạt 458.440 xe, tăng 9,95%; doanh thu của ngành linh kiện điện tử tăng 23,41%. Tính chung giá trị tăng thêm của 3 ngành này tăng 11,82% so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh tới 4,26 điểm %. Các ngành công nghiệp còn lại có mức tăng trưởng so với cùng kỳ là 9,58%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,8 điểm %.

- Các ngành dịch vụ đạt 3.920 tỷ đồng, tăng 7,25%, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,64 điểm %.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a) Sản xuất nông nghiệp

- Trồng trọt:

+ Sản xuất vụ đông: Để khuyến khích bà con nông dân tích cực gieo trồng cây vụ đông, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hàng hóa, UBND tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ cho người sản xuất như: hỗ trợ sản xuất rau quả hàng hóa an toàn theo VietGAP năm 2017; hỗ trợ giống ngô biến đổi gen vụ Thu - Đông năm 2017; hỗ trợ sản xuất rau ăn lá theo quy trình VietGAP năm 2017... Tuy nhiên, do chi phí lớn, phải đầu tư mất nhiều công lao động, hiệu quả kinh tế không cao nên bà con nông dân các địa phương vẫn chưa thực sự tích cực gieo trồng, nhiều diện tích bị bỏ không. Tổng diện tích gieo trồng cây vụ đông năm 2017-2018 đạt 17.784 ha, giảm 5,29% so với vụ đông năm trước. Trong đó, ngô 9.768 ha, giảm 5,15%; khoai lang 1.694 ha, tăng 8,99%; đậu tương 1.006 ha, giảm 18,64%; lạc 164 ha, tăng 3,34%; rau các loại 4.481 ha, giảm 10,18% so với vụ đông năm 2016-2017...

Sản xuất vụ đông năm nay thời tiết không thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển (ảnh hưởng của mưa lớn từ vụ mùa, nước rút chậm, đất ướt phải gieo trồng muộn; rét đậm kéo dài) nên năng suất một số loại cây giảm so với cùng kỳ. Năng suất, sản lượng một số loại cây trồng chủ yếu như sau: ngô đạt 43,12 tạ/ha, giảm 0,71%, sản lượng đạt 42.119 tấn, giảm 5,82% so vụ đông năm trước; khoai lang đạt 109,70 tạ/ha, tăng 1,98%, sản lượng đạt 18.587 tấn, tăng 11,17%; đậu tương đạt 19,29 tạ/ha, giảm 4,50%, sản lượng đạt 1.941 tấn, bằng 77,70%; rau các loại đạt 213,62 tạ/ha, giảm 5,51%, sản lượng đạt 95.727 tấn, giảm 15,12% so cùng kỳ...

+ Gieo trồng vụ xuân: Tính đến hết ngày 15/3/2018, toàn tỉnh đã gieo trồng được 38.842 ha cây vụ xuân các loại, bằng 97,89% so với cùng kỳ. Trong đó, đã gieo cấy được 30.837 ha lúa, giảm 1,55%; 2.642 ha ngô, giảm 1,67%; 115 ha đậu tương, tăng 19,79%; 1.670 ha lạc, giảm 8,59%; 1.959 ha rau xanh, giảm 2,05% so với cùng kỳ... Hiện nay, cây lúa đang bén rễ, hồi xanh, bắt đầu đẻ nhánh, bà con nông dân các địa phương đang tập trung tỉa, dặm để bảo đảm mật độ; bón phân và chăm sóc các loại cây trồng khác theo đúng quy trình, hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn. Nhìn chung, các loại cây trồng phát triển tốt.

- Chăn nuôi:Sản xuất chăn nuôi tiếp tục nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành, với nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ cho người chăn nuôi; giá các loại sản phẩm chăn nuôi nhìn chung tương đối ổn định ở mức khá, người chăn nuôi có lãi; công tác phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh được quan tâm và thường xuyên thực hiện, không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh; công tác kiểm tra, ngăn chặn và xử lý kịp thời các tổ chức, cá nhân vi phạm về vận chuyển, buôn bán gia súc gia cầm có mầm bệnh hoặc gia cầm thuộc diện có dịch bệnh cần quản lý, tổ chức các chốt kiểm tra vệ sinh, an toàn thực phẩm tại các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại trên địa bàn được duy trì, thực hiện nghiêm túc. Đây là những điều kiện thuận lợi cơ bản để người dân yên tâm đầu tư mở rộng quy mô sản xuất.

Bên cạnh những thuận lợi, sản xuất chăn nuôi trong Quý I của người dân cũng còn gặp phải những khó khăn nhất là phát triển đàn lợn. Mặc dù thời gian gần đây giá lợn hơi đã nhích lên khoảng 32.000đ/kg đến 34.000 đ/kg, người chăn nuôi tuy không còn phải chịu lỗ nhưng vẫn chưa thực sự yên tâm để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất vì giá cả còn bấp bênh, chưa thực sự ổn định (nhất là các hộ chăn nuôi nhỏ), nguy cơ dịch bệnh còn cao, việc xử lý chất thải trong chăn nuôi còn gặp nhiều khó khăn.

Cùng với nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ của tỉnh và sự cố gắng của bà con nông dân trong chăn nuôi, đàn gia súc và gia cầm trên địa bàn tỉnh trong Quý I phát triển tốt, số lượng đầu con tương đối ổn định, các sản phẩm chăn nuôi sản xuất ra cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trên địa bàn tỉnh và một số vùng lân cận, nhất là trong thời gian trước và sau Tết Nguyên đán. Ước tính tại thời điểm 31/3/2018 toàn tỉnh có: 18.904 con trâu; 116.757 con bò (trong đó có 9.183 con bò sữa), 635.927 con lợn, 10,08 triệu con gia cầm (trong đó có 8,53 triệu con gà các loại)... Sản lượng sản phẩm chăn nuôi trong Quí I ước đạt như sau: Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng đạt 385 tấn, tăng 2,30% so với cùng kỳ; thịt bò hơi 1.473 tấn, tăng 5,20%; thịt lợn hơi đạt 24.200 tấn, giảm 0,20%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng đạt 8.410 tấn, tăng 7%; trứng gia cầm đạt 120,3 triệu quả, tăng 5,90%; sản lượng sữa bò đạt 5.200 tấn, tăng 18,20% so với cùng kỳ...

Để chủ động phòng, chống một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho gia súc, gia cầm, ngăn chặn dịch bệnh phát sinh và lây lan trên địa bàn tỉnh, ngày 26/01/2018 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đã ban hành Kế hoạch tiêm phòng vắc xin cho gia súc, gia cầm và khử trùng tiêu độc môi trường chăn nuôi năm 2018. Theo kế hoạch, thời gian thực hiện đợt 1 từ ngày 15/3/2018 đến 30/4/2018, đợt 2 từ ngày 15/9/2018 đến 30/10/2018.

b) Sản xuất lâm nghiệp

Nhằm góp phần giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp, đồng thời nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân về tác dụng của trồng rừng, trồng cây phân tán, tỉnh đã thực hiện kế hoạch phát động "Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ". Đến nay, các địa phương trên địa bàn tỉnh trồng được 258 nghìn cây lâm nghiệp phân tán chủ yếu trồng ở ven đường, trường học và tận dụng đất trống ở một số nơi để trồng cây. Đồng thời, chủ trương trồng rừng thay thế của tỉnh tiếp tục được thực hiện. Diện tích rừng trồng mới tập trung Quý I dự kiến đạt 93 ha, tăng 1,65% so với cùng kỳ; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 4.211m3, tăng 1,06%; sản lượng củi khai thác ước đạt 6.581ste tăng 0,35% so với cùng kỳ.

Công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành chỉ đạo triển khai tích cực đến các địa phương như tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng, phòng chống chữa cháy rừng tới cộng đồng, dân cư nhằm hạn chế đến mức thấp nhất số vụ cháy, quy mô cháy và thiệt hại do cháy rừng, phá rừng gây ra. Tuy vậy, vào lúc 2 giờ 30 phút ngày 13/02/2018 đã xảy ra 1 vụ cháy rừng tại khu vực núi Tam Cót, thôn Lập Đinh, xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên với diện tích cháy khoảng 0,54 ha, nguyên nhân vụ cháy đang được xác minh làm rõ.

c) Sản xuất thuỷ sản

Tình hình nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh trong Quý I ổn định. Trong kỳ, bà con nuôi trồng thủy sản tích cực thu hoạch thuỷ sản và chuẩn bị cho vụ nuôi trồng mới. Sản lượng thủy sản nuôi trồng Quý I dự kiến đạt 4.545 tấn, tăng 3,20% so với cùng kỳ. Tình hình sản xuất giống thủy sản diễn ra ổn định; Hiện nay đang bắt đầu vụ nuôi trồng mới nên nhu cầu con giống cho sản xuất tăng cao và ngày càng đa dạng, vì vậy sản xuất giống được các hộ chú trọng và cũng mang lại nguồn thu nhập ổn định; Các cơ sở sản xuất giống lớn của tỉnh như Chi cục thủy sản, Công ty cổ phần giống Yên Lạc, Trung tâm Thủy sản cấp 1 và Trung tâm giống vật nuôi đã chuẩn bị đủ đàn cá bố mẹ và các cở sở vật chất cần thiết đảm bảo tốt cho vụ sản xuất giống mới và đảm bảo đủ nhu cầu con giống cho bà con nuôi trồng thuỷ sản.

3. Sản xuất công nghiệp

Nhờ môi trường kinh doanh ổn định và việc đồng hành, sát cánh, kịp thời giải quyết mọi khó khăn, vướng mắc của các cấp chính quyền đối với cộng đồng doanh nghiệp, ngay từ đầu năm mới, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có nhiều khởi sắc và không có nhiều biến động về lao động. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Ba tăng 21,82% so tháng trước và tăng ở hầu hết các ngành công nghiệp của tỉnh. Tính chung cả Quý I, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,22% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo ngành kinh tế cấp I, trong Quý I ngành công nghiệp khai khoáng tăng 0,59%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,34%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 13,72%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải giảm 4,36% so với Quý I năm 2017.

Trong Quý I, có 3/10 ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, ngành công nghiệp dệt bằng 39,68% so với cùng kỳ do một số doanh nghiệp trong ngành gặp khó khăn trong việc tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm nên đã chủ động chuyển sang ngành sản xuất sản phẩm khác dẫn đến chỉ số sản xuất giảm sâu; ngành sản xuất sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại giảm 1,50% do là thời điểm đầu năm, số công trình, dự án xây dựng mới triển khai chưa nhiều, nên lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ giảm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý, xử lý rác thải giảm 4,36%. Các ngành công nghiệp chủ yếu còn lại đều có mức tăng khá so với cùng kỳ, tăng cao nhất là ngành sản xuất sản phẩm điện tử với chỉ số sản xuất tăng 23,41% so với cùng kỳ năm trước do nhu cầu sử dụng các thiết bị điện tử thông minh ngày càng tăng dẫn đến các ngành công nghiệp phụ trợ không ngừng phát triển, tạo công việc ổn định cho nhiều người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế cho tỉnh; tiếp đến là ngành sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 9,95%, ngành sản xuất trang phục tăng 9,53%, ngành sản xuất xe có động cơ tăng 7,43%...

Dự kiến Quý I, các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn sản xuất được 58.737 tấn thức ăn gia súc, tăng 6,35%; 18.562 ngàn quần áo các loại, tăng 8,33%; 27.745 ngàn m2 gạch ốp lát, giảm 1,50%; 14.384 xe ô tô các loại, tăng 7,43%; 458.440 xe máy các loại, tăng 9,95%; 1.092 triệu kw.h điện thương phẩm, tăng 13,72%; 5.141 ngàn m­3 nước thương phẩm, tăng 16,11% so với Quý I năm trước...

Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn Quý I tăng 3,63% so cùng kỳ. Chia theo ngành cấp I, chỉ số sử dụng lao động của ngành chế biến chế tạo tăng 3,84%, các ngành còn lại có chỉ số tăng hoặc giảm nhẹ. Theo thành phần kinh tế, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp nhà nước giảm 7,16%, doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 15,15%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,12% so với cùng kỳ năm trước.

4. Đầu tư, xây dựng

a) Vốn đầu tư: Sản xuất công nghiệp tăng khá, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện đã thu hút thêm được dự án mới góp phần thúc đẩy vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn đạt khá so cùng kỳ năm trước. Dự kiến, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn Quý I thực hiện được 5.409 tỷ đồng, tăng 7,55% so với cùng kỳ. Chia theo nguồn vốn, vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện 1.235 tỷ đồng, chiếm 22,83% tổng vốn và bằng 89,93% so với cùng kỳ năm trước; vốn ngoài nhà nước thực hiện 2.798 tỷ đồng, chiếm 51,74% và tăng 20,58%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 1.376 tỷ đồng, chiếm 25,43% và tăng 3,04%. Chia theo khoản mục đầu tư, vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 3.799 tỷ đồng, chiếm 70,23% tổng số và tăng 25,76% so với cùng kỳ; Vốn đầu tư mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất không qua xây dựng cơ bản đạt 1.140 tỷ đồng, chiếm 21,08% tổng số và tăng 51.09% so với cùng kỳ năm 2017…

Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được quan tâm và đẩy mạnh làm việc với nhiều Nhà đầu tư đến tìm hiểu môi trường đầu tư của tỉnh như: Tập đoàn Huyndai Corporation Hàn Quốc, Ngân hàng Mizuho Nhật Bản, tham dự Hội nghị tiếp xúc doanh nghiệp Việt Nam của tỉnh Ibaraki, Nhật Bản... Nhiều hoạt động tổng kết, đánh giá kết quả công tác xúc tiến đầu tư được tổ chức, từ đó rút kinh nghiệm và đưa ra giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp, tạo môi trường đầu tư ổn định, hiệu quả. Kết quả thu hút vốn đầu tư trong Quý I như sau:

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Tính từ đầu năm đến nay, tỉnh thu hút được 10 dự án mới với tổng vốn đầu tư đăng ký 30 triệu USD và 05 lượt dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư tăng 15 triệu USD. Lũy kế đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc có 288 dự án FDI còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 4.063,61 triệu USD. Các dự án mới đăng ký đầu tư tại Vĩnh Phúc chủ yếu thuộc ngành sản xuất linh kiện điện tử; Đáng chú ý có Dự án sản xuất gia công bảng mạch điện tử PCB của Công ty TNHH VINA NEWFLEX xây dựng tại khu CN Bá Thiện II với tổng mức đầu tư 10 triệu USD.

- Đầu tư trực tiếp trong nước (DDI): Thu hút được 08 dự án mới với tổng vốn đầu tư đăng ký 950,98 tỷ đồng và 05 dự án tăng vốn với số vốn 627,13 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng vốn đạt 1.578,11 tỷ đồng, tăng 143,63% về vốn đầu tư so với cùng kỳ, đạt 63,12% kế hoạch năm. Nhiều dự án có tổng mức đầu tư lớn như: Dự án khu phố thương mại truyền thống Shophouse Thổ Tang của Công ty cổ phần đầu tư An Huy với tổng mức đầu tư 581,4 nghìn tỷ đồng; Dự án xây dựng nhà máy sản xuất phân bón Quế Lâm Biotech của Công ty CP tập đoàn Quế Lâm có tổng mức đầu tư 161,7 nghìn tỷ đồng.... Các dự án này khi đi vào sản xuất sẽ tạo việc làm và thu nhập cho hàng nghìn lao động trên địa bàn tỉnh.

Các dự án ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài là các dự án có tầm quan trọng lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong Quý I, UBND tỉnh đã có Quyết định phê duyệt kế hoạch triển khai tổng thể Dự án Quản lý nguồn nước và ngập lụt Vĩnh Phúc; Tổ chức lựa chọn nhà thầu thiết kế BVTC và dự toán hợp phần 2 và hợp phần 3 đối với Dự án Chương trình phát triển các đô thị loại II; Tổ chức tuyển chọn, ký hợp đồng với nhà thầu tư vấn điều chỉnh lại báo cáo nghiên cứu khả thi và báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điểu chỉnh chủ trương đầu tư Dự án Cầu Đầm vạc. Thực hiện bàn giao dự án hoàn thành đối với Dự án Cải thiện Môi trường Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc cho các đơn vị khai thác sử dụng.

b) Xây dựng: Trong Quý I, giá VLXD ổn định, thị trường bất động sản có dấu hiệu khả quan, nhu cầu xây dựng nhà ở của dân cư có xu hướng gia tăng; vốn đầu tư cho xây dựng nông thôn mới được giải ngân nhanh hơn; một số dự án có vốn đầu tư lớn đã được khởi công mới, tiến độ thi công nhanh như: Công trình nhà kỹ thuật nghiệp vụ và nội trú - Bệnh viện Sản nhi tỉnh; Dự án đường vành đai 3 đoạn Hương Canh – Yên Lạc; công trình chợ Vĩnh Yên; Dự án cải tạo, nâng cấp ĐT.302, đoạn qua suối Đình Cả, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo... Vì thế, hoạt động xây dựng 3 tháng đầu năm đạt kết quả cao góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá hiện hành ước đạt 2.990 tỷ đồng, tăng 18,80% so với cùng kỳ; theo giá so sánh 2010, đạt 2.236 tỷ đồng, tăng 13,42% so cùng kỳ năm trước.

5. Tài chính, ngân hàng

a) Tình hình thu, chi ngân sách Nhà nước

Theo Nghị quyết số 37 của HĐND tỉnh, năm 2018, Vĩnh Phúc phấn đấu tổng thu ngân sách đạt 29.640 tỷ đồng. Để đạt được mục tiêu này, nhất là trong bối cảnh chịu tác động mạnh của lộ trình cắt giảm thuế quan các nước trong khu vực Asean, ngành Thuế đã chủ động, tích cực đôn đốc khai thác các nguồn thu trên tất cả các lĩnh vực; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế, trốn thuế, nợ thuế. Kết quả thu ngân sách nhà nước Quý I ước đạt 6.910 tỷ đồng, đạt 23,3% so với dự toán năm, tăng 2,05% so với cùng kỳ; trong đó, thu nội địa đạt 6.000 tỷ đồng, đạt 22,5% so với dự toán năm, tăng 0,07% so với cùng kỳ. Chi ngân sách nhà nước đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi của tỉnh, tổng chi ngân sách nhà nước Quý I ước đạt 2.405,6 tỷ đồng, đạt 14,5% so với dự toán, giảm 21,82% so với cùng kỳ.

b) Hoạt động ngân hàng, tín dụng

Hoạt động thanh toán được các tổ chức tín dụng tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ; đa dạng hóa và đẩy mạnh sử dụng các phương tiện, gia tăng dịch vụ thanh toán mới, hiện đại, phù hợp với các chuẩn mực thông lệ và quốc tế; tăng cường hoạt động đảm bảo an ninh, an toàn đối với hệ thông thanh toán; thực hiện giao dịch một cửa tạo thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch góp phần phục vụ kinh tế - xã hội tại địa phương.

Thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ và định hướng điều hành của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với mục tiêu đồng hành cùng khách hàng, trong Quý I một số ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã giảm mức lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên. Hiện tại mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức từ 6% đến 6,5%/năm đối với ngắn hạn; từ 7% đến 9%/năm đối với trung, dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức từ 6,8% đến 9%/năm đối với ngắn hạn; từ 9% đến 10,5%/năm đối với trung và dài hạn.

Hoạt động tín dụng có bước phát triển, đạt kết quả khả quan hơn so cùng kỳ năm trước, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh ổn định và phát triển. Tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng đến cuối tháng Ba ước đạt 62.730 tỷ đồng, tăng 0,39% so với tháng trước và tăng 1,44% so với cuối năm 2017. Trong đó, tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 24.520 tỷ đồng, giảm 6,13%; tiền gửi tiết kiệm đạt 37.320 tỷ đồng, tăng 7,46% so với cuối năm 2017. Tổng dư nợ cho vay đến cuối tháng Ba ước đạt 52.950 tỷ đồng, tăng 0,21% so với cuối năm 2017. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 31.560 tỷ đồng, giảm 2,67% so với cuối năm 2017, chiếm tỷ lệ 59,6% tổng dư nợ; dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 21.390 tỷ đồng, tăng 4,79% so với cuối năm 2017, chiếm tỷ lệ 40,4% tổng dư nợ. Nợ xấu tháng Ba ước 762 tỷ, chiếm tỉ lệ 1,44% trên tổng dư nợ; nợ xấu giảm thấp góp phần cải thiện thanh khoản của hệ thống ngân hàng, giảm mặt bằng lãi suất, mở rộng tăng trưởng tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.

6. Thương mại, dịch vụ và giá cả

a) Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tình hình bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh trong Quý I diễn ra khá sôi động, nhân dân tập trung nhiều cho mua sắm hàng tiêu dùng trong dịp Tết Nguyên đán nên hàng hoá tiêu thụ mạnh vào những ngày giữa tháng Hai. Sức mua tăng mạnh nhất vẫn là các mặt hàng lương thực, thực phẩm và một số sản phẩm thiết yếu khác phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân trong dịp Tết. Sau Tết, tình hình bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng có giảm hơn, song vẫn giữ được mức ổn định. Mặt khác, trong những năm gần đây tỉnh Vĩnh Phúc đã có những chính sách về phát triển thương mại, du lịch và dịch vụ; lực lượng tham gia kinh doanh thương mại, dịch vụ trên địa bàn tăng  góp phần làm cho lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ổn định và có sự tăng trưởng so cùng kỳ.

Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng Quý I đạt 10.388 tỷ đồng, tăng 7,18% so với cùng kỳ năm trước và có sự tăng trưởng ở tất cả các thành phần kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước đạt 387 tỷ đồng, tăng 2,12%; kinh tế tập thể đạt 14 tỷ đồng, tăng 8,25%; kinh tế cá thể đạt 5.140 tỷ đồng, tăng 7,70%; kinh tế tư nhân đạt 4.197 tỷ đồng, tăng 7,10%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 650 tỷ đồng, tăng 6,69% so cùng kỳ năm trước.

Phân theo nhóm ngành kinh tế, trong Quí I ngành thương nghiệp bán lẻ ước đạt 8.900 tỷ đồng, chiếm 85,68% tổng mức, tăng 7,05% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 7,44%; ô tô các loại tăng 7,93%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 7,18% so với cùng kỳ... Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch Quý I ước đạt 835 tỷ, chiếm 8,04% tổng mức, tăng 8,33% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu lưu trú tăng 7,86%, ăn uống tăng 8,38% và du lịch lữ hành tăng 8,21%. Các ngành dịch vụ tiêu dùng khác ước thực hiện Quý I đạt 653 tỷ, chiếm 6,29% tổng mức, tăng 7,37% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành kinh doanh bất động sản tăng 7,83%, nghệ thuật vui chơi giải trí tăng 7,74%, dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 7,26% so cùng kỳ...

b) Vận tải hành khách và hàng hoá

Để đáp ứng nhu cầu vận chuyển trong điều kiện sản xuất công nghiệp, xây dựng, lưu chuyển hàng hóa tăng cao và nhu cầu đi lại trong dịp Tết cũng như đi tham quan, lễ hội đầu năm của nhân dân. Ước tổng khối lượng vận chuyển hàng hoá Quý I đạt 7.200 ngàn tấn, bằng 551.760 ngàn tấn km; so với cùng kỳ tăng 6,07% về tấn và tăng 7,23% về tấn km. Khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 6.175 ngàn người, bằng 386.442 ngàn người km; so cùng kỳ giảm 6,69% về người và giảm 8,96% về người km. Tổng doanh thu vận tải ước đạt 934,2 tỷ đồng, tăng 6,32% so cùng kỳ. Trong đó, vận tải đường bộ đạt 766,05 tỷ đồng, tăng 3,05%; vận tải đường sông đạt 168,1 tỷ đồng, tăng 24,34% so cùng kỳ...

c) Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Ba giảm 0,07% so với tháng trước, tăng 1,71% so với cùng tháng năm trước và tăng 1,06% so tháng 12 năm trước. Tính chung ba tháng đầu năm, CPI tăng 4,18% so với cùng kỳ.

So với tháng trước, CPI trong tháng Ba không có biến động nhiều ở tất cả các nhóm hàng. Trong 11 nhóm hành chủ yếu, chỉ có nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng có chỉ số tăng với 1,80%, nguyên nhân chủ yếu là: giá mặt hàng nhà ở thuê tăng 4,78%, do nhu cầu tìm thuê để sử dụng, sinh sống nhà riêng biệt này ngày càng tăng;  nhóm vật liệu, bảo dưỡng nhà ở tăng 0,54% do giá thép xây dựng tăng; nhóm điện sinh hoạt tăng 0,56%, do nhu cầu tiêu dùng điện thắp sáng và giải trí trong những ngày Tết của người dân tăng hơn. Có 6/11 nhóm hàng chính có chỉ số giảm, cụ thể: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,19%, đồ uống và thuốc lá giảm 0,65%, may mặc, mũ nón, giầy dép giảm 1,11%, thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,08%, giao thông giảm 0,96%, văn hóa giải trí du lịch giảm 0,17%. Các nhóm hàng còn lại giá ổn định.

7. Một số vấn đề xã hội

a) Giải quyết việc làm và đào tạo nghề

Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động được tăng cường. Trong Quý I, đã tổ chức tổ chức 08 phiên giao dịch việc làm, đã tuyển được trên 200 lao động cho các doanh nghiệp qua Sàn giao dịch việc làm; tổ chức sơ tuyển lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài như: Đài Loan 100 chỉ tiêu, thực tập sinh kỹ thuật tại Nhật Bản 200 chỉ tiêu.

Theo kế hoạch, năm 2018 tỉnh Vĩnh Phúc đặt mục tiêu giải quyết việc làm cho từ 22.000 đến 23.000 người; tổ chức tốt công tác tư vấn, giới thiệu việc làm cho lao động, tư vấn về việc làm, học nghề và bảo hiểm xã hội cho từ 25.000 đến 30.000 lượt người; giới thiệu việc làm cho khoảng 4.000 người; tuyển sinh du học và xuất khẩu lao động từ 100 đến 300 người và tiếp tục duy trì thường xuyên sàn giao dịch việc làm cố định với 4 phiên/tháng.

Hoạt động đào tạo dạy nghề tiếp tục được kiện toàn trong đó chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề với 3 tiêu chí: Năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm và năng lực phát triển nghề nghiệp theo Thông tư 08/2017/TT-BLĐTBXH ngày 10/3/2017 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Đồng thời, tăng cường đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Theo kế hoạch, trong giai đoạn 2017 - 2020, toàn tỉnh sẽ đào tạo và hỗ trợ học nghề sơ cấp và dưới 3 tháng cho 19.435 lao động khu vực nông thôn; trong đó, nhóm nghề nông nghiệp là 12.629 người, nhóm nghề phi nông nghiệp là 6.806 người, trình độ sơ cấp 11.838, học nghề dưới 3 tháng là 7.597 người.

b) Công tác bảo đảm an sinh xã hội

Chính sách với người có công luôn đượcĐảng, Nhà nước quan tâm và ngày càng mở rộng về diện và mức trợ cấp. Trong kỳ, công tác giải quyết chế độ chính sách đối với người có công trên địa bàn được thực hiện kịp thời, đầy đủ theo quy định của pháp luật; tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. Ngoài quà của Chủ tịch Nước, quà của các doanh nghiệp, các cấp ngân sách của tỉnh đã trích hàng chục tỷ đồng tặng quà cho các đối tượng. Kết quả cụ thể: Quà Chủ tịch nước cho 25.460 đối tượng, tổng kinh phí quà tặng là 5.196 triệu đồng; quà của tỉnh cho 36.087 đối tượng chính sách, tổng kinh phí quà tặng là 11.494 triệu đồng; quà của cấp huyện cho 5.148 đối tượng chính sách, kinh phí quà tặng là 2.591 triệu đồng; quà của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cho 925 đối tượng, tổng kinh phí quà tặng là 190 triệu đồng.

Giải quyết chế độ mai táng phí và tuất đối với thân nhân người có công cho trên 351 trường hợp với số tiền trên 4,2 tỷ đồng; cấp 85.000 thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng người có công, cựu chiến binh, thanh niên xung phong, người hưởng chế độ theo Quyết định số 62 của Thủ tướng Chính phủ; tiếp nhận và thẩm định hồ sơ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học chuyển Hội đồng y khoa khám và giám định 20 trường hợp...

c) Tình hình giáo dục

Trong Quý I, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo quyết liệt việc triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động số 66-CTr/TU ngày 27/1/2014 của Tỉnh Uỷ về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH trong điều kiện nền kinh tế thị trường XHCN và hội nhập quốc tế” và Nghị quyết Hội nghị TW 9 (khóa XI): “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Rà soát tình hình đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị, danh mục các trường chưa đạt chuẩn quốc gia để làm căn cứ đầu tư giai đoạn tới. Xây dựng kế hoạch thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố lịch thi THPT quốc gia năm 2018. Theo đó, kỳ thi sẽ diễn ra trong ba ngày từ 25 đến 27/6/2018, nhưng bước sang tháng 4 các thí sinh đã phải đăng ký nguyện vọng vào các trường cao đẳng, đại học trên cả nước. Theo Thông tư 04/2018/TT-BGDĐT ban hành ngày 28/2/2018 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15/4/2018 về việc sửa đổi một số điều trong Quy chế thi tốt nghiệp THPT, cùng với thông tư 05/2017 về tuyển sinh được ban hành trước đây, kỳ thi tốt nghiệp và tuyển sinh năm 2018 có khá nhiều thay đổi. Trước kỳ thi quan trọng này, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Vĩnh Phúc đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục thực hiện nội dung ôn thi theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tổ chức dạy học lớp 12 năm học 2017-2018 và ôn thi THPT quốc gia. Theo đó, các trường đã xây dựng kế hoạch dạy học, ôn tập năm 2018 sát với hướng dẫn đề thi tham khảo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, phù hợp với từng nhóm đối tượng, không gây quá tải…phấn đấu đạt kết quả tốt nhất trong kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới.

d) Tình hình y tế

Trong kỳ, ngành Y tế đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe, phổ biến kiến thức về các biện pháp phòng chống dịch bệnh trong giai đoạn giao mùa, vận động nhân dân đưa trẻ đi tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch; tổ chức hướng dẫn thực hiện các biện pháp vệ sinh cá nhân, vệ sinh nguồn nước, sử dụng gia cầm an toàn, cách phân biệt các triệu chứng nghi ngờ bệnh để có thể đến cơ sở y tế kịp thời, do đó đã hạn chế tối đa trường hợp mắc và tử vong do các bệnh như: Sởi-Rubella, viêm màng não do mô cầu, bệnh cúm A (H5N1, H1N1), tiêu chảy Rota vi rút, tay chân miệng...

Công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm tại các khu di tích, địa điểm tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh được Ban Chỉ đạo liên ngành an toàn vệ sinh thực phẩm của tỉnh tích cực thực hiện bằng các hoạt động như: Kiểm tra chất lượng các mặt hàng được sử dụng nhiều trong dịp lễ, tết; kiểm tra giấy chứng nhận, giấy cam kết sản xuất thực phẩm an toàn; kiểm tra quy trình chế biến, bảo quản thực phẩm, nguồn gốc nguyên liệu... Hai tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh đã tiến hành thanh, kiểm tra 1.359 lượt cơ sở sản xuất, kinh doanh các mặt hàng lương thực thực phẩm, số cơ sở đạt an toàn vệ sinh thực phẩm là 1.165, đạt tỷ lệ 85,72%; 194 cơ sở không đạt, chiếm 14,28%. Đoàn thanh, kiểm tra đã tiến hành nhắc nhở 129 cơ sở, cảnh cáo 18 cơ sở, phạt tiền 47 cơ sở với tổng số tiền phạt 89,65 triệu đồng.

e) Văn hoá, thể thao

Các hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi, giải trí, du lịch được các cấp, ngành quan tâm tổ chức để phục vụ nhân dân và du khách. Các lễ hội trên địa bàn tỉnh về cơ bản được đảm bảo ổn định, nhân dân địa phương và du khách thập phương được thụ hưởng không khí lễ hội vui tươi, phấn khởi, đảm bảo tiết kiệm, văn minh, lành mạnh. Ngày 6/3/2018, Hội nhà báo tỉnh phối hợp với Ban tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở thông tin và Truyền thông cùng các đơn vị liên quan tổ chức Khai mạc Hội báo xuân Vĩnh Phúc năm 2018, đây là nét đẹp văn hóa vào mỗi dịp Tết đến Xuân về và cũng là dịp gặp gỡ, giao lưu giữa những người làm báo với công chúng và đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của nhân dân…

Lễ khởi động Tháng Thanh niên và phát động đợt thi đua cao điểm năm 2018. Với chủ đề “Tuổi trẻ sáng tạo dựng xây đất nước”, các hoạt động trong Tháng Thanh niên năm 2018 sẽ diễn ra với nhiều hoạt động, qua đó góp phần giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cho thế hệ tuổi trẻ Vĩnh Phúc; phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ hành động vì cộng đồng; tạo phong trào thi đua sôi nổi chào mừng 87 năm Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2018).

f) Tình hình trật tự an toàn giao thông

Thực hiện đợt cao điểm đảm bảo trật tự an toàn giao thông Tết Nguyên đán 2018, các cơ quan chức năng đã tăng cường phương tiện, lực lượng, thiết bị kỹ thuật và các biện pháp nghiệp vụ, tích cực phòng ngừa, hạn chế mức thấp nhất tai nạn giao thông. Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, trong ba tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh xảy ra 4 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy làm chết 5 người và bị thương 2 người; so với cùng kỳ năm trước, giảm 44,44% về số vụ, giảm 37,50% về số người chết và giảm 66,67% về số người bị thương. Qua tuần tra, kiểm soát, lực lượng chức năng đã lập biên biển, ra quyết định xử phạt 3.697 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, thu hơn 1,7 tỷ đồng nộp ngân sách Nhà nước.

g) Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

 Tình hình cháy nổ: Để đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy trong dịp Tết Nguyên đán 2018, Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy tỉnh đã mở đợt cao điểm về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; bảo đảm an ninh, trật tự trước, trong và sau Tết; tổ chức rà soát, xây dựng các ph­ương án xử lý tình huống cháy; thực hiện tốt công tác thường trực sẵn sàng chiến đấu về cả lực lượng và phương tiện để cứu chữa kịp thời, hiệu quả các vụ cháy, nổ xảy ra; yêu cầu các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đóng trên địa bàn kiểm tra các phương tiện, dụng cụ chữa cháy tại chỗ, thiết bị báo cháy, lối thoát nạn, thoát hiểm, đảm bảo an toàn về người và tài sản khi có sự cố xảy ra. Đồng thời, các Đoàn kiểm tra liên ngành, tổ chức kiểm tra các vị trí trọng điểm, dễ xảy ra cháy nổ như: Chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, kho xăng dầu… Tổ chức tuyên truyền, khuyến cáo nhân dân nâng cao tinh thần tự giác, cảnh giác, đề phòng cháy, nổ. Tính từ đầu tháng Ba đến nay, trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ cháy, nổ nào.

 Công tác bảo vệ môi trường:Ngày 09/3/2018, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành văn bản về việc tổ chức các hoạt động hưởng ứng ngày Nước Thế giới. Nhiều hoạt động hưởng ứng ngày Nước Thế giới năm 2018 với chủ đề “Nước với Thiên nhiên” đã được tỉnh tổ chức, nhằm tuyên truyền, vận động và nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và mọi tầng lớp nhân dân về bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tiết kiệm nguồn nước.

Giờ Trái đất là chiến dịch toàn cầu do Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên phát động nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng. Năm 2018, sự kiện Giờ trái đất sẽ diễn ra từ 20h30-21h30 ngày 24/3. Theo đó, Sở Công Thương tỉnh đã có văn bản đề nghị các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành thị trong tỉnh phổ biến, tuyên truyền tới cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân, nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu và tiết kiệm năng lượng; thực hiện cắt giảm hệ thống điện chiếu sáng, sân vườn trang trí, thiết bị điện không cần thiết trong 1 giờ đồng hồ vào thời điểm diễn ra sự kiện. Ngoài việc treo băng rôn, poster và phát tờ rơi tuyên truyền, Công ty Điện lực Vĩnh Phúc còn tổ chức đoàn đạp xe diễu hành trên các tuyến phố chính, khu vực đông dân cư tại thành phố Vĩnh Yên vào ngày 24/3 nhằm cổ vũ cho sự kiện này. Với thông điệp “Hôm nay tôi sống xanh hơn”, Giờ Trái đất 2018 là sự kiện xã hội có ý nghĩa sâu sắc và tác động lớn đến việc nâng cao ý thức người dân, cộng đồng và xã hội trong việc tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Ước tính Vĩnh Phúc sẽ tiết kiệm khoảng 26.000 kwh điện năng trong 1 giờ diễn ra sự kiện Giờ trái đất năm nay./.

 

luat_sua_doi_ltk

Đang truy cập: 10
Trong ngày: 107
Trong tuần: 1052
Lượt truy cập: 1423631

Xin cho biết ý kiến của bạn về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc?
Tốt
Khá
Trung bình
Kém

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚCChung nhan Tin Nhiem Mang

Địa chỉ: Số 20

Lý Thái Tổ - Phường Đống Đa - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Điện thoại: 0211 3 861 139, Fax: 0211 3 843 841Email: vinhphuc@gso.gov.vn, cuctk@vinhphuc.gov.vn