.::. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, cơ sở hành chính, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn .::. .............................................................................................................................................................................................................. ........................................  

Tình hình KT-XH tỉnh Vĩnh Phúc tháng Tám và 8 tháng năm 2019 

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp vàthuỷ sản

1.1. Nông nghiệp

- Trồng trọt: Tính đến hết ngày 15/8/2019, toàn tỉnh gieo trồng được 31.356 ha lúa và rau màu các loại, giảm 6,29% so với cùng kỳ. Ngoài diện tích đỗ tương và rau các loại tăng, các loại cây trồng chủ yếu còn lại đều giảm so với vụ mùa năm 2018. Cụ thể: diện tích lúa mùa đạt 23.870 ha, giảm 6,69%; ngô 1.440 ha, giảm 17,86%; khoai lang 203 ha, giảm 11,61%; lạc 426 ha, giảm 9,73%; đỗ tương 151 ha, tăng 3,21%; rau xanh các loại 2.068 ha, tăng 0,69%...

Trong tháng, bà con nông dân chủ yếu tập trung vào chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho lúa và rau màu. Do thời tiết nắng nóng, mưa nhiều xen kẽ, độ ẩm cao là điều kiện để sâu bệnh phát sinh gây hại cho cây trồng nên hiện nay trên một số diện tích lúa mùa đã xuất hiện sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân 2 chấm, rầy nâu, rầy lưng trắng, bệnh vàng lá sinh lý... Để đảm bảo cho sản xuất đạt kết quả tốt, ngày 02/8/2019, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đã có văn bản số 1284/SNN&PTNT-TT&BCTV về việc tăng cường chỉ đạo phòng, chống sinh vật hại lúa trong cao điểm vụ mùa 2019; theo đó, các cơ quan chức năng hướng dẫn bà con nông dân tăng cường kiểm tra đồng ruộng phát hiện sớm và nắm chắc diễn biến của các loại sâu bệnh, kịp thời có các biện pháp phòng trừ đảm bảo an toàn, hiệu quả. Nhìn chung các trà lúa sinh trưởng và phát triển tốt.

- Chăn nuôi:

Tình hình chăn nuôi gia cầm trên địa bàn tiếp tục có chiều hướng phát triển khá, giá các sản phẩm gia cầm như thịt hơi, trứng sau một thời gian dài xuống quá thấp, đã có dấu hiệu tăng trở lại và duy trì ở mức cao. Từ đầu năm đến nay không có dịch bệnh lớn xảy ra, đàn gia cầm phát triển tốt nên người dân đã yên tâm, tập trung đầu tư sản xuất. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của Dịch tả lợn Châu phi (DTLCP),  nhiều hộ dân đã chuyển từ nuôi lợn sang nuôi gà, vịt nên đàn gia cầm được đánh giá tăng khá mạnh so với cùng kỳ.

Chăn nuôi lợn vẫn gặp nhiều khó khăn do bệnh DTLCP xảy ra ở nhiều địa phương đến nay vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Tuy nhiên, từ đầu tháng 8 đến nay, giá và sức mua thịt lợn trên địa bàn tỉnh liên tục tăng mạnh, đạt mức cao nhất trong 3 năm trở lại đây tạo điều kiện thuận lợi cho hộ chăn nuôi duy trì sản xuất. Nhưng theo khuyến cáo của ngành Nông nghiệp, nông dân và các chủ trang trại chăn nuôi không tái đàn trong thời gian này, bởi nguồn virus gây bệnh vẫn tiềm ẩn dẫn tới nguy cơ tái phát ổ dịch. Nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của người chăn nuôi là tiếp tục duy trì đàn hiện có; thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ đàn lợn của gia đình trước DTLCP. Đối với những hộ đã có lợn bị tiêu hủy do dịch, thời điểm này có thể tạm thời chuyển sang chăn nuôi một số vật nuôi khác. Sau khi công bố hết dịch, người chăn nuôi lợn có thể tái đàn, song cần thận trọng, lưu ý áp dụng chăn nuôi theo quy trình an toàn sinh học, không nên tái đàn ồ ạt. Đồng thời, phải sử dụng con giống chất lượng, rõ nguồn gốc, tuyệt đối không sử dụng con giống trôi nổi trên thị trường, không có xác nhận của ngành chức năng và hạn chế chăn nuôi theo quy mô nhỏ lẻ.

1.2. Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng mới tập trung trên địa bàn tỉnh đến tháng Tám ước đạt 560 ha, bằng 80% kế hoạch năm, tăng 1,06% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng trồng được chăm sóc là 2.340 ha, tăng 2,42%; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 9.631 ha, tăng 1,15%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 1,36 triệu cây, sản lượng gỗ khai thác trong tháng ước đạt 3.702 m3, tăng 3,80%; sản lượng củi khai thác ước đạt 4.306 Ste, tăng 0,60% so với cùng kỳ năm trước.

1.3. Thuỷ sản

Tháng Tám thời tiết mưa nhiều với lượng mưa tương đối lớn, nhiều diện tích nuôi trồng thủy sản có nguy cơ bị ngập. Để bảo vệ sản xuất, hạn chế thấp nhất thiệt hại do mưa lũ gây ra trong nuôi trồng thủy sản, các địa phương đã tích cực, chủ động hướng dẫn bà con theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, áp dụng các biện pháp phòng chống và khắc phục thiệt hại do mưa lũ gây ra.

Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tính đến hết tháng Tám ước đạt 6.142 ha, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thuỷ sản trong tháng ước đạt 1.988 tấn, tăng 5,57% so với cùng kỳ; số lượng con giống sản xuất đạt 178 triệu con, tăng 6,64% so với cùng kỳ. Tính chung tám tháng đầu năm, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 14.235 tấn, tăng 4,64% so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng nuôi trồng đạt 12.839 tấn, tăng 5,36%; sản lượng khai thác đạt 1.396 tấn, giảm 1,56% so với cùng kỳ.

2. Sản xuất công nghiệp

2.1. Chỉ số sản xuất

Tháng Tám, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 1,64% so với tháng trước và tăng 12,02% so với cùng kỳ năm 2018. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là ngành chủ đạo, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung toàn ngành công nghiệp của tỉnh, đạt mức tăng 1,64% so với tháng trước và tăng 11,95% so với cùng kỳ. Ngành cung cấp nước và xử lý rác thải những tháng gần đây luôn đạt mức tăng khá cao so với mức tăng chung, chỉ số tháng Tám tăng 2,24% so tháng trước và tăng 24,8% so với cùng kỳ. Ngành công nghiệp khai khoáng và ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt cũng có mức tăng khá.

 ktxh8t2019

 

Tính chung tám tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,86% so với cùng kỳ năm trước, tăng thấp hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm 2018 (tám tháng năm 2018 tăng 16,41%). Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành chiếm tỷ trọng lớn tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ như: Ngành sản xuất sản phẩm điện tử dẫn đầu với mức tăng 44,52%; ngành sản xuất kim loại tăng 25,43%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 23,67%; ngành sản xuất thiết bị điện tăng 22,49%... Tuy nhiên, vẫn có 7/24 ngành công nghiệp cấp II của tỉnh có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành sản xuất xe có động cơ giảm 2,33%. Các doanh nghiệp sản xuất xe lắp ráp trên địa bàn vẫn gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ do phải cạnh tranh với thị trường xe nhập khẩu; cùng với đó, nguồn cung ô tô lắp ráp trong nước có thêm VinFast với sản lượng gần 10.000 xe/tháng giúp người tiêu dùng có thêm nhiều lựa chọn khác, do đó chỉ số tiêu thụ 8 tháng ngành ô tô của tỉnh giảm 1,38% so với cùng kỳ. Ngành sản xuất phương tiện vận tải giảm 13,62%, là ngành có thị trường tiêu thụ ngày càng khó khăn, sản lượng sản xuất trong 8 tháng đầu năm chỉ đạt 1.189 nghìn chiếc, bằng 86,38% so với cùng kỳ.

Các ngành công nghiệp còn lại phát triển ổn định.

2.2. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu

Khối lượng sản xuất một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu trong tháng Tám đều tăng so với tháng trước. Cụ thể: Thức ăn gia súc ước đạt 23.789 tấn, tăng 0,32%; quần áo các loại 6.304 nghìn cái, tăng 6,50%; giày, dép thể thao 716 nghìn đôi, tăng 1,85%; gạch ốp lát 14.064 nghìn m2, tăng 3,02%; máy điều hòa không khí 2.637 cái, tăng 0,27%; xe ô tô chở dưới 10 người 5.548 chiếc, tăng 3,58%; xe máy các loại 161.939 chiếc, tăng 0,35%...

Tính chung tám tháng đầu năm 2019, ngoài sản lượng ô tô giảm 2,33%, xe máy giảm 13,62% và quần áo các loại giảm 0,73%, các nhóm sản phẩm công nghiệp chủ yếu còn lại của tỉnh đều có mức tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm 2018 như: Giày thể thao đạt 4.830 nghìn đôi, tăng 30,53%; gạch ốp lát 99.601 ngàn m2, tăng 23,67%; máy điều hòa không khí 18.242 cái, tăng 28,78%; điện thương phẩm 3.937 triệu kwh, tăng 15,25%, nước uống được 16.857 nghìn m3, tăng 15,26%...

2.3. Chỉ số sử dụng lao động

Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tháng Tám tăng 0,89% so với tháng trước và tăng 1,96% so với cùng kỳ. Tính chung tám tháng đầu năm chỉ số tăng 0,53% so với cùng kỳ; trong đó, khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 5,60%, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 5,85%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,52%.

2.4. Chỉ số tiêu thụ, tồn kho

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Tám năm 2019 tăng 1,05% so với tháng trước và giảm 1,16% so với cùng kỳ. Tám tháng đầu năm, nhiều ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao như: ngành sản xuất kim loại  tăng 23,23%; ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 28,13%, ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 35,04%, ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 45,07%... Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm như: ngành sản xuất xe có động cơ giảm 1,38%, ngành sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 15,85%... Các ngành còn lại có biến động nhẹ.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Tám năm 2019 giảm 2,18% so với tháng trước và tăng 29,80% so cùng kỳ. Hầu hết các ngành đều có chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ; trong đó, ngành sản xuất kim loại tăng 25,84%; ngành sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 122,02%; ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 143,84%...

3. Đầu tư, xây dựng

Để đẩy nhanh việc thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2019, ngày 30/7/2019, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã có văn bản số 5773/UBND-KT1 về triển khai thực hiện công tác quản lý, thanh toán vốn đầu tư công đã giao, yêu cầu các cấp các ngành tập trung đồng bộ các giải pháp, quyết liệt chỉ đạo, khắc phục khó khăn trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng; đẩy nhanh công tác chuẩn bị đầu tư, thẩm định thiết kế kỹ thuật bản vẽ thi công, dự toán và công tác đấu thầu; tăng cường thanh tra công vụ trong giải quyết thủ tục hành chính, quyết tâmhoàn thành kế hoạch đề ra. Vì vậy, mặc dù tình hình thời tiết trong tháng Tám mưa nhiều, không thuận lợi cho các hoạt động xây dựng, nhưng cả chủ đầu tư và bên thi công đều tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình. Kết quả thực hiện vốn đầu tư trong tháng đạt khá: Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý thực hiện ước đạt 565 tỷ đồng tăng 11,39% so với tháng trước và tăng 2,41% so cùng kỳ năm 2018. Trong đó nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 385,9 tỷ đồng, tăng 16,0% vốn ngân sách cấp huyện là 139,3 tỷ đồng tăng 2,74%; vốn ngân sách cấp xã là 39,73 tỷ đồng tăng 2,19% so với tháng trước. Sau tám tháng, tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt 3.722,6 tỷ đồng, tăng 3,98% so với cùng kỳ năm 2018 và bằng 59,73% kế hoạch năm.

4. Thương mại, dịch vụ và giá cả

4.1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng

Tháng Tám, tình hình kinh doanh thương mại và dịch vụ trên địa bàn trầm lắng hơn so với tháng trước do tâm lý người dân hạn chế mua sắm trong Bảy âm lịch, đặc biệt với các mặt hàng có giá trị lớn như ô tô, xe máy, đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, nên doanh thu đối với các ngành hàng này đều giảm so với tháng trước. Bên cạnh đó, do đã bước sang mùa mưa bão, thời tiết mưa nhiều nên nhu cầu du lịch, vui chơi giải trí trong tháng cũng giảm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tám ước đạt 4.306 tỷ đồng, giảm 1,86% so với tháng trước.

Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tám vẫn đạt mức tăng 8,52%. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng Tám tăng 8,09% và tăng ở hầu hết các nhóm ngành hàng như: Vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 20,39%; Hàng may mặc tăng 17,53%; Hàng lương thực thực phẩm tăng 17,53%; xăng dầu các loại tăng 8,30%; nhiên liệu khác tăng 12,57%... Tám tháng đầu năm doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 28.978 tỷ đồng, tăng 9,16% so với cùng kỳ.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ khác tháng Tám ước đạt 621 tỷ đồng, giảm 3,25% so với tháng trước, tăng 11,10% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 357 tỷ đồng; doanh thu du lịch, lữ hành đạt 9 tỷ đồng; doanh thu các ngành dịch vụ khác đạt 255 tỷ đồng. Tính chung Tám tháng đầu năm doanh thu của ngành dịch vụ đạt 4.728 tỷ đồng, tăng 9,62% so với cùng kỳ.

4.2. Vận tải hành khách và hàng hoá

Nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách, Công ty Cổ phần ô tô vận tải Vĩnh Phúc và Công ty liên doanh vận tải hành khách Vĩnh Phúc đã đưa vào sử dụng 28 xe buýt mới thay thế toàn bộ xe buýt cũ trên 6 tuyến VP03, VP04, VP05, VP07, VP08 và VP09. Việc đưa vào sử dụng xe buýt mới, chất lượng cao đã góp phần tạo điều kiện cho nhân dân trong và ngoài tỉnh đi lại thuận lợi, giải quyết bài toán ách tắc giao thông, giảm phương tiện cá nhân, góp phần an sinh xã hội, cải tạo môi trường sống và tăng doanh thu cho hoạt động vận tải.

Dự kiến, khối lượng vận chuyển hành khách tháng Tám ước đạt 2.083 ngàn người, tăng 0,48% so với tháng trước và tăng 1,16% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển hành khách đạt 146 triệu người.km, so với tháng trước và cùng kỳ năm trước tăng lần lượt là 0,69% và 2,65%. Vận chuyển hàng hóa đạt 2.901 ngàn tấn, tăng 1,19% so với tháng trước và tăng 6,07% so với cùng kỳ; luân chuyển hàng hóa đạt 207 triệu tấn.km, so với tháng trước tăng 0,98% so cùng kỳ năm trước tăng 5,47%. Tính chung tám tháng đầu năm, vận chuyển hành khách đạt 16.765 ngàn người, tăng 4,26%; luân chuyển hành khách đạt 1.143 triệu người.km, tăng 4,81% so cùng kỳ; vận chuyển hàng hóa đạt 22.190 ngàn tấn, tăng 7,43%;luân chuyển hàng hóa đạt 1.631 triệu tấn.km, tăng 6,90% so cùng kỳ.

Tổng doanh thu vận tải tháng Tám ước đạt 376,5 tỷ đồng, tăng 1,15% so với tháng trước và tăng 8,09% so cùng kỳ. Trong đó, vận tải hành khách đạt 83,7 tỷ đồng, tăng 8,26%; vận tải hàng hóa 282,4 tỷ đồng, tăng 7,52% so cùng kỳ. Tính chung Tám tháng đầu năm, tổng doanh thu vận tải đạt 2.908,9 tỷ đồng, tăng 9,91% so với cùng kỳ.

4.3. Chỉ số giá

a) Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trên địa bàn tỉnh tháng Tám tăng 0,59% so với tháng trước, tăng 1,53% so với cùng kỳ và tăng 1,85% so tháng 12 năm 2018. Tính chung Tám tháng đầu năm, CPI tăng 1,32% so với cùng kỳ năm 2018; đây là mức tăng bình quân thấp nhất trong 4 năm gần đây (năm 2018 CPI bình quân 8 tháng đầu năm so cùng kỳ tăng 4,25%; năm 2017 là 3,62%; năm 2016 là 1,35%).

Trong 11 nhóm hàng chủ yếu, có 5 nhóm hàng ghi nhận mức chỉ số tăng so với tháng trước là: (1) Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,44%,chủ yếu do nhóm thực phẩm tăng 2,07%. Do hưởng của dịch tả lợn Châu phi, nguồn cung trên thị trường ngày càng khan hiếm, thêm vào đó người tiêu dùng đã quay trở lại tiêu thụ các sản phẩm thịt lợn sau khi hiểu đúng về dịch bệnh không lây sang người là những nguyên nhân khiến giá thịt lợn các loại tăng làm cho nhóm thịt gia súc tươi sống tăng tới 6,86%. Ngoài ra, một số thực phẩm khác trong nhóm cũng có mức tăng cao: trứng các loại tăng 6,29%, thủy sản tươi sống tăng 2,28%... (2) nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,58% chủ yếu ở mặt hàng thuốc lá tăng 1,85% do việc áp dụng chính sách tăng thuế thuốc lá đã làm cho giá thuốc lá tăng so với tháng trước; (3) nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,74% chủ yếu do nhóm điện và nước sinh hoạt tăng lần lượt là 3,76% và 0,27% đã góp phần làm cho chỉ số giá của nhóm tăng; (4) thuốc và dịch vụ y tế tăng 3,06% do Bộ Y tế ban hành Thông tư 13/2019/TT-BYT sửa đổi Thông tư 39/2018/TT-BYT quy định về thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một số trường hợp. Theo đó giá dịch vụ y tế tăng 3,73% trong đó dịch vụ khám chữa bệnh ngoại trú tăng 1,77% và khám chữa bệnh nội trú tăng 4,44%; (5) hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,05% do nhóm đồ trang sức tăng 4,20%.

Các nhóm còn lại giá tương đối ổn định.

b) Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ

Giá vàng thế giới và trong nước những ngày qua liên tiếp tăng giá, chỉ số giá trong tháng tăng 4,46% so với tháng trước. Giá bán bình quân trên thị trường tự do là 4.002 nghìn đồng/chỉ. Giá vàng trên thị trường tăng mạnh nguyên nhân chủ yếu do một số ngân hàng Trung ương ở các nước đồng loạt hạ lãi suất khiến các nhà đầu tư cảm thấy không an toàn khi đầu tư vào đồng USD đã làm đồng USD liên tục giảm trong những tháng qua là nguyên nhân chính khiến giá vàng thế giới tăng cao. Giá vàng tăng chủ yếu do các yếu tố tác động từ bên ngoài nhiều hơn là do tâm lý thị trường trong nước. Ngược chiều với giá vàng, giá Đô la Mỹ trên thị trường tự do trong tháng có những phiên giảm nhẹ. Giá đô la mỹ bình quân chung của cả tháng 8 giảm 0,13% so với tháng trước với mức giá bán bình quân phổ biến là 22.623 đồng/USD.

8t2019_2

5. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

5.1. Tình hình thu, chi ngân sách Nhà nước

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tiếp tục duy trì tiến độ khả quan, chi ngân sách đáp ứng kịp thời các yêu cầu đầu tư phát triển, chi trả nợ, đảm bảo quốc phòng, an ninh và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo số liệu của Kho bạc Nhà nước, tổng thu ngân sách trên địa bàn tính đến 22/8/2019 ước đạt 22.660 tỷ đồng, bằng 81,53% dự toán. Trong đó, thu nội địa đạt 19.915 tỷ đồng, bằng 82,15% dự toán; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 2.711 tỷ đồng, bằng 76,36% dự toán. Trong thu nội địa, một số khoản thu chiếm tỷ trọng lớn và đạt mức thu khá như: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15.037 tỷ đồng, bằng 75,64% dự toán; thu từ thuế thu nhập cá nhân đạt 602 tỷ, bằng 84,79% dự toán; các khoản thu về nhà đất đạt 2.356 tỷ đồng, bằng 344,49% so dự toán...

Tổng chi ngân sách nhà nước trên địa bàn đến 22/8/2019 hiện đạt 10.826 tỷ đồng, trong đó chi thường xuyên đạt 5.613 tỷ đồng, chi đầu tư phát triển đạt 5.166 tỷ đồng.

5.2. Hoạt động ngân hàng, tín dụng

Tháng Tám, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trên địa bàn cơ bản ổn định, lãi suất huy động phổ biến ở mức 4,5-7,3%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên. Lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-9%/năm; các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-10,5%/năm. Dự kiến tổng nguồn vốn huy động đến 31/8/2019 đạt 69.380 tỷ đồng; tăng 0,53% so với cuối năm 2018. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm là 44.150 tỷ đồng, chiếm 64% tổng nguồn vốn huy động, tăng 10,28%. Đây là thời điểm các ngân hàng đưa ra các chính sách ưu đãi, chương trình khuyến mại với mức lãi suất hợp lý cho từng kỳ hạn để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ người dân, bù đắp nguồn vốn giảm do các tổ chức kinh tế rút ra đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tổng dư nợ cho vay dự kiến đến 31/8/2019 đạt 73.790 tỷ đồng; tăng 9,71% so với cuối năm 2018. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 47.590 tỷ đồng; tăng 11,6% so với cuối năm 2018; chiếm 64,49% tổng dư nợ; dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 26.200 tỷ đồng, tăng 6,43% so với cuối năm 2018; chiếm 35,51% tổng dư nợ. Nợ xấu toàn địa bàn đến hết tháng Tám năm 2019 ước là 693 tỷ đồng, chiếm tỉ lệ 0,94% trên tổng dư nợ.

Các tổ chức tín dụng trên địa bàn đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ; đa dạng hóa và đẩy mạnh sử dụng các phương tiện, gia tăng dịch vụ thanh toán mới, hiện đại, phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế; tăng cường hoạt động đảm bảo an ninh, an toàn đối với hệ thông thanh toán; thực hiện giao dịch một cửa tạo thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch góp phần phục vụ kinh tế - xã hội tại địa phương. Mạng lưới ATM, POS được chú trọng phát triển về số lượng, quy mô, nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại nhiều sản phẩm tiện ích cho người sử dụng. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã lắp đặt và vận hành 209 máy ATM, gần 700 POS được lắp đặt tại các trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, siêu thị, nhà hàng, khách sạn, các cửa hàng bán lẻ… tạo điều kiện cho người dân dễ dàng thanh toán và sử dụng dịch vụ ngân hàng.

5.3. Bảo hiểm

Tính đến tháng Tám năm 2019, toàn tỉnh có 1.016.607 người tham gia đóng bảo hiểm các loại. Trong đó, Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc là 197.334 người, BHXH tự nguyện 4.827 người, bảo hiểm thất nghiệp 183.742 người, bảo hiểm y tế là 1.011.780 người. So với mục tiêu của Nghị quyết số 21và số 28-NQ/TW: tỷ lệ bao phủ BHXH đạt 31,4% lực lượng lao động, bảo hiểm thất nghiệp đạt 28,5% lực lượng lao động và tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế  đạt 91,7% dân số.

Kết quả thu BHXH trong tháng Tám ước đạt 408,7 tỷ đồng, đưa lũy kế đến hết tháng Tám đạt 2.973,4 tỷ, tăng 411,3 tỷ đồng so với cùng kỳ và đạt 66,4% so với kế hoạch giao. Trong tháng, Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đã thực hiện chi đúng, chi đủ, kịp thời cho các đối tượng thụ hưởng chế độ BHXH, bảo hiểm y tế với tổng số tiền là 341 tỷ đồng (trong đó: Chi BHXH là 238,9 tỷ đồng, chi bảo hiểm y tế là 102,1 tỷ đồng). Cụ thể: giải quyết hưởng BHXH hàng tháng cho 51 người; giải quyết hưởng BHXH một lần cho 367người; giải quyết ốm đau, thai sản, dưỡng sức cho 2.094 lượt người; giải quyết cho 501 lượt người hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Hàng tháng ngành BHXH đã phối hợp với ngành Bưu điện chi trả đúng, đủ lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng cho người thụ hưởng chính sách trên địa bàn tỉnh.

6. Một số vấn đề xã hội

6.1. Tình hình giáo dục

Chỉ còn ít ngày nữa các học sinh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc cùng hàng triệu học sinh trong cả nước sẽ bước vào khai giảng năm học mới 2019-2020. Đến thời điểm này, công tác chuẩn bị về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, chỉnh trang, vệ sinh trường lớp đang được ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Vĩnh Phúc tập trung hoàn tất, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho năm học mới. Năm học 2019-2020, năm bản lề thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông mới, toàn ngành quyết tâm thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch của tỉnh triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Đề án số 01-ĐA/TU của Tỉnh ủy; tiếp tục thực hiện tốt 9 nhiệm vụ trọng tâm và 5 nhóm giải pháp cơ bản trong nhiệm vụ của năm học 2019-2020 mà Bộ GD&ĐT đã đề ra.

 6.2. Hoạt động văn hóa, thể thao

Chào mừng 74 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945-19/8/2019) và Quốc khánh mùng 2 tháng 9, trên địa bàn tỉnh đã diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, vui chơi giải trí... Tổ chức các hoạt động tri ân, thăm hỏi gia đình chính sách, người có công với cách mạng, đồng thời xây dựng các cụm pano, khẩu hiệu ở các khu trung tâm, nơi tập trung đông người nhằm góp phần giáo dục thế hệ trẻ truyền thống yêu nước và cách mạng, thành quả đấu tranh của thế hệ đi trước; hiểu rõ hơn về cách mạng Việt Nam, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Trong kỳ, đoàn học sinh của Vĩnh Phúc đã tham dự Giải Bơi cứu đuối nước học sinh, thanh thiếu nhi toàn quốc "Đường đua xanh" năm 2019 do Tổng cục Thể dục thể thao phối hợp với Bộ GD&ĐT, Hội đồng Đội Trung ương tổ chức tại thành phố Huế. Giải thu hút hơn 600 vận động viên của 26 đơn vị đăng ký dự thi đến từ 24 tỉnh, thành phố. Kết quả, đoàn Vĩnh Phúc đoạt 3 huy chương, trong đó, có 1 HCB, 2 HCĐ, xếp thứ 11/26 đơn vị dự thi. Tham gia giải lần này, các VĐV của tỉnh được cọ xát, đánh giá kết quả huấn luyện đội dự tuyển môn Bơi để tham gia Hội khỏe Phù Đổng khu vực và toàn quốc lần thứ X được tổ chức vào năm 2020.

6.3. Tình hình y tế

Trong tháng, ngành Y tế Vĩnh Phúc tiếp tục chỉ đạo các đơn vị chức năng tiếp tục chú trọng phòng chống các dịch bệnh phát sinh theo mùa như: Sốt xuất huyết, Tay- Chân- Miệng, Sởi... Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra các dịch bệnh lớn trên địa bàn; duy trì tốt việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Đến thời điểm này, trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh lớn xảy ra.

Công tác tuyên truyền phổ biến Luật An toàn thực phẩm, truyền thông phổ biến kiến thức về an toàn vệ sinh thực phẩm được thực hiện thường xuyên. Sở Y tế tỉnh đã tổ chức phối hợp liên ngành trong công tác thanh kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm và dịch vụ ăn uống. Tính đến ngày 16/8/2019, trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào.

Công tác phòng chống HIV/AIDS tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt chú trọng đến việc thông tin, truyền thông về các hoạt động tư vấn, chăm sóc, điều trị người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS; phối hợp liên ngành chặt chẽ trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh.Tính đến ngày 31/7/2019, lũy tích có 4.363 người nhiễm HIV (số người nhiễm HIV có hộ khẩu tại tỉnh là 2.116 người); lũy tích số người chuyển AIDS là 2.287 người (số có hộ khẩu tại tỉnh là 1.496 người); lũy tích số người tử vong do AIDS là 999 người (803trường hợp có hộ khẩu tại tỉnh). Số bệnh nhân đang nhận thuốc điều trị ARV là 895 bệnh nhân (23 trẻ em).

6.4. Tình hình an ninh trật tự và phòng, chống cháy nổ

Tình hình an ninh trật tự: Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, từ ngày 16/7/2019 đến ngày 15/8/2019, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 02 vụ tai nạn giao thông, làm 01 người chết, 01 người bị thương, nâng tổng số vụ tai nạn giao thông trong Tám tháng đầu năm lên 21 vụ, làm 23 người chết, 15 người bị thương. Qua tuần tra, kiểm soát đảm bảo trật tự an toàn giao thông các lực lượng chức năng đã lập biên bản, ra quyết định xử phạt 5.670 trường hợp vi phạm, nộp vào Kho bạc Nhà nước trên 2,5 tỷ đồng.

Tình hình cháy nổ: Trong kỳ (từ ngày 16/7/2019 đến 15/8/2019), trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy trại gà Công ty JapFa Comfeed ở xã Yên Dương huyện Tam Đảo. Giá trị thiệt hại và nguyên nhân cháy đang được điều tra làm rõ. Lũy kế từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 21 vụ cháy, nổ, ước tính giá trị thiệt hại trên 5,55 tỷ đồng.

Tình hình bảo vệ môi trường: Theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường, từ ngày 16/7/2019 đến ngày 15/8/2019 đã phát hiện và xử lý 03 vụ vi phạm môi trường với số tiền phạt là 55,6 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm trên địa bàn tỉnh phát hiện và xử lý 12 vụ vi phạm môi trường với số tiền bị phạt 865,3 triệu đồng./.

 

luat_sua_doi_ltk

Đang truy cập: 14
Trong ngày: 52
Trong tuần: 972
Lượt truy cập: 1405684

Xin cho biết ý kiến của bạn về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc?
Tốt
Khá
Trung bình
Kém

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚCChung nhan Tin Nhiem Mang

Địa chỉ: Số 20

Lý Thái Tổ - Phường Đống Đa - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Điện thoại: 0211 3 861 139, Fax: 0211 3 843 841Email: vinhphuc@gso.gov.vn, cuctk@vinhphuc.gov.vn