.::. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, cơ sở hành chính, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn .::. .............................................................................................................................................................................................................. ........................................  

File dữ liệu báo cáo (định dạng PDF)

Lời văn

Số liệu

 

Chín tháng đầu năm 2017, UBND tỉnh đã tập trung quán triệt, chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương, tổ chức, đoàn thể và doanh nghiệp tích cực triển khai cụ thể hóa các Nghị quyết của Chính phủ, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; thường xuyên chỉ đạo theo dõi, đánh giá, phân tích tình hình, đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo đảm an sinh xã hội. Nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội đạt nhiều kết quả tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tuy còn gặp khó khăn do giá lợi hơi xuống thấp nhưng nhìn chung ổn định; sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi và phát triển, các doanh nghiệp mới đầu tư đi vào sản xuất tạo ra giá trị sản lượng lớn đóng góp vào tăng trưởng của ngành cũng như  tăng trưởng chung của tỉnh; các ngành dịch vụ đáp ứng tốt cho sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân. Các hoạt động văn hóa, thể thao, lễ hội, vui chơi giải trí diễn ra khá sôi động, phong phú. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường. Công tác bảo đảm an sinh xã hội được cả hệ thống chính trị, cộng đồng xã hội và các doanh nghiệp cùng quan tâm. Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định.

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) chín tháng đầu năm 2017 theo giá so sánh 2010 dự kiến đạt 53.092 tỷ đồng, tăng 7,76% so cùng kỳ năm 2016. Trong đó, tổng giá trị tăng thêm đạt 40.016 tỷ đồng, tăng 8,89% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung là 6,63 điểm %; thuế sản phẩm đạt 13.076 tỷ đồng, tăng 4,44% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung là 1,13 điểm %.

Trong tổng số, giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 3.798 tỷ đồng, tăng 3,91% so với cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,29 điểm %; riêng ngành nông nghiệp đạt 3.553 tỷ đồng, tăng 3,94% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 0,27 điểm %. Ngành công nghiệp, xây dựng đạt 26.090 tỷ đồng, tăng 9,93% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 4,78 điểm %; riêng ngành công nghiệp đạt 24.363 tỷ đồng, tăng 10,04% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 4,51 điểm %. Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ đạt 10.128 tỷ đồng, tăng 8,21% so cùng kỳ, đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,56 điểm %.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

a) Nông nghiệp

+Trồng trọt: Theo số liệu sơ bộ, vụ mùa năm nay toàn tỉnh gieo trồng được 33.088 ha cây hàng năm, giảm 0,4% so với vụ mùa năm 2016. Trong tổng số, diện tích lúa là 26.566 ha, giảm 2,23% so với cùng kỳ; ngô 2.143 ha, tăng 26,54%; khoai lang 261 ha, giảm 4,98%; rau các loại 2.167 ha, tăng 8,31%... Do chịu ảnh hưởng của hoàn lưu các cơn bão  trong tháng Bảy và tháng Tám đã làm cho một số diện tích lúa bị ngập úng tập trung chủ yếu ở các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên. Dự kiến, năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu vụ mùa như sau: lúa đạt 48,90 tạ/ha, tăng 18,89% so với cùng kỳ, sản lượng đạt 129.906 tấn, tăng 16,24%; ngô đạt 37,98 tạ/ha, tăng 32,43%, sản lượng đạt 8.139 tấn, tăng 67,57%; khoai lang đạt 80,12 tạ/ha, tăng 11,82%, sản lượng đạt 2.094 tấn, tăng 6,25%; rau các loại đạt 182,12 tạ/ha, tăng 32,64%, sản lượng đạt 39.467 tấn, tăng 56,93% so với cùng kỳ (số cùng kỳ tăng cao do vụ mùa năm 2016 nhiều diện tích bị ngập, mất trắng)...

Tính chung cả năm 2017, toàn tỉnh gieo trồng được 93.563 ha cây hàng năm, giảm 2,47% so với năm 2016. Ngoài diện tích rau các loại tăng, diện tích các loại cây trồng chủ yếu khác đều giảm so với năm trước. Trong đó, diện tích lúa đạt 57.886 ha, giảm 0,85; ngô 15.129 ha, giảm 5,49%; khoai lang 2.127 ha, giảm 3,12%; đậu tương 1.479 ha, giảm 25,21%; lạc 2.423 ha, giảm 13,91%; rau các loại 9.310 ha, tăng 3,25% so với năm 2016... Dự kiến năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu cả năm 2017 như sau: năng suất lúa đạt 55,45 tạ/ha, tăng 9,93%, sản lượng đạt 320.974 tấn, tăng 9,0% so với năm 2016; ngô đạt 43,46 tạ/ha, tăng 4,42%, sản lượng đạt 65.743 tấn, giảm 1,32%; khoai lang đạt 101,05 tạ/ha, tăng 4,89%, sản lượng đạt 21.495 tấn, tăng 1,61%; lạc đạt 19,19 tạ/ha, tăng 3,84%, sản lượng đạt 4.649 tấn, giảm 10,62%; đậu tương đạt 19,53 tạ/ha, tăng 4,94%, sản lượng đạt 2.889 tấn, giảm 21,53%; rau các loại đạt 209,22 tạ/ha, tăng 8,6 %, sản lượng đạt 194.778 tấn, tăng 12,13% so với năm 2016...

Tổng diện tích các loại cây lâu năm hiện có 8.348 ha, tăng  0,6% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó diện tích cây ăn quả là 7.808 ha, chiếm 93,65% diện tích các loại cây lâu năm. Các loại cây ăn quả dễ trồng chiếm nhiều diện tích như: Vải 1.981 ha, chuối 1.831 ha, nhãn 769 ha, xoài 755 ha, na 318 ha...

+ Chăn nuôi: Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh chín tháng đầu năm có nhiều thuận lợi. Một số cơ chế chính sách hỗ trợ tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trong đó có chăn nuôi giai đoạn 2016-2020 tiếp tục được triển khai thực hiện; công tác phòng chống dịch bệnh được kiểm soát tốt; công tác tuyên truyền vận động người dân nâng cao nhận thức phòng, chống dịch bệnh trên vật nuôi được thực hiện thường xuyên nên từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh không xảy ra các dịch bệnh lớn. Tuy nhiên, chăn nuôi lợn trong những tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn do giá thịt lợn hơi quá thấp và duy trì ở mức 20.000đ/kg - 24.000đ/kg khiến người dân phải chịu thua lỗ nặng. Thời điểm hiện tại, chăn nuôi lợn đã khởi sắc hơn do giá thịt lợn hơi ổn định ở mức 27.000đ/kg - 30.000đ/kg, đã tạo điều kiện để các hộ chăn nuôi lớn duy trì và có xu hướng tăng đàn trong thời gian tới.

Ước tính, tại thời điểm 01/9/2017 có 19.820 con trâu, tăng 0,20%; 117.560 con bò, tăng 7,44%; 597.905 con lợn, giảm 3,86%; đàn gia cầm có 9.661 nghìn con, tăng 0,84% so với cùng thời điểm năm 2016. Dự kiến chín tháng đầu năm, sản lượng thịt trâu đạt 1.229 tấn, tăng 1,15%; sản lượng thịt bò đạt 4.380 tấn, tăng 10,04%; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 68.119 tấn, tăng 4,55%; sản lượng gà đạt 19.606 tấn, tăng 6,25%; trứng gà đạt 251,7 triệu quả, tăng 4,46% so với cùng kỳ năm 2016.

b) Lâm nghiệp

Dự kiến chín tháng đầu năm, các đơn vị sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh trồng mới tập trung được 639,2 ha, đạt 106,5% kế hoạch năm, tăng 8,19% so với cùng kỳ. Trong đó, rừng sản xuất 593,4 ha, rừng phòng hộ 25,8 ha và rừng đặc dụng 20 ha. Diện tích rừng được chăm sóc là 480 ha và 9.758 ha rừng được giao khoán, bảo vệ. Sản lượng gỗ khai thác chín tháng đầu năm dự kiến đạt 22.528 m3 tăng 2,95%, sản lượng củi đạt 37.920ste, tăng 0,77%.

Công tác phòng chống cháy rừng luôn đ­ược các cấp các ngành chỉ đạo tích cực, nguy cơ cháy rừng được cảnh báo thường xuyên. Song, do thời tiết hanh khô ở những tháng đầu năm nên đã xảy ra 5 vụ cháy rừng trên địa bàn tỉnh với diện tích rừng bị cháy là 37,71 ha.

c) Thuỷ sản

Sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh chín tháng đầu năm cơ bản ổn định, giá thủy sản ở mức cao, nuôi trồng từng bước được đa dạng hoá, chất lượng thủy sản ngày càng đáp ứng được yêu cầu của thị trường và tạo ra thu nhập khá cho người nuôi. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 vào giữa tháng Tám, mưa lớn kéo dài làm cho một số diện tích nuôi trồng thủy sản bị ngập tràn gây thiệt hại một phần tới sản lượng nuôi trồng thủy sản của tỉnh.

Diện tích nuôi trồng thuỷ sản chín tháng đầu năm ước đạt 6.916 ha, tăng 0,72% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thuỷ sản đạt 15.104 tấn, tăng 3,18% so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng khai thác 1.772 tấn, giảm 2,38%; sản lượng nuôi trồng 13.332 tấn, tăng 3,96%.

3. Sản xuất công nghiệp

a) Chỉ số sản xuất

Chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng Chín tăng 1,33% so với tháng trước và tăng 12,82% so với cùng kỳ. Chia theo ngành kinh tế cấp I, các ngành tăng tương ứng so với tháng trước và cùng kỳ như sau: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 3,21% và tăng 3,98%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,33% và tăng 12,88%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 2,12% và tăng 14,53%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 0,73% và tăng 3,82%. Dự kiến chín tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 10,62% so cùng kỳ năm trước. Chia theo ngành kinh tế cấp I: ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4,18%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,64%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 13,52%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 5,89%.

Chia theo ngành kinh tế cấp II, so với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất chín tháng giảm 2,49% ở ngành sản xuất chế biến thực phẩm, giảm 10% ở ngành dệt may và giảm 13,14% ở ngành sản xuất xe có động cơ. Các ngành công nghiệp còn lại đều có chỉ số tăng so với cùng kỳ. Trong đó, ngành sản xuất linh kiện điện tử tăng tiếp tục có chỉ số tăng cao với 52,32% so với cùng kỳ; ngành sản xuất xe máy mấy tháng gần đây có dấu hiệu phục hồi do liên tục đưa ra thị trường những mẫu xe được cải tiến về mẫu mã, kiểu dáng, với nhiều tính năng tiện lợi làm hài lòng khách hàng, bên cạnh đó, việc xuất khẩu xe sang một số nước như Nhật, Mỹ, Myanma... được đẩy mạnh nên chỉ số sản xuất các tháng liên tục tăng so với tháng trước và cùng kỳ. Trong đó, tháng Bảy tăng 8,55%, tháng Tám tăng 12,21%, tháng Chín tăng 14,88% so với cùng kỳ. Tính chung chín tháng đầu năm, chỉ số sản xuất của ngành này tăng 7,06% so với chín tháng đầu năm 2016 góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của ngành công nghiệp cũng như tăng trưởng chung của tỉnh.

b) Sản phẩm công nghiệp chủ yếu

Dự kiến tháng Chín các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh sản xuất được 17.408 tấn thức ăn gia súc, tăng 1,12%; 452 ngàn đôi giày thể thao, tăng 6,86%; 10.965 ngàn m2 gạch ốp lát, tăng 1,68%; 2.020 máy điều hòa không khí, tăng 1,05%; 3.823 xe ô tô các loại, giảm 0,57%; 184.041 xe máy các loại, tăng 0,25%; 415 triệu kwh điện thương phẩm, tăng 1,97%; 1.747 ngàn m­3 nước máy thương phẩm, tăng 0,58% ....Tính chung chín tháng đầu năm, các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh sản xuất được: 158.786 tấn thức ăn gia súc, giảm 2,49%; 3.911 ngàn đôi giày thể thao, tăng 2,24%; 91.630 ngàn m2 gạch ốp lát, tăng 4,73%; 14.945 máy điều hòa không khí, tăng 6,26%; 37.982 xe ô tô các loại, giảm 13,14%; 1.428.982  xe máy các loại, tăng 7,06%; 3.198 triệu kwh điện thương phẩm, tăng 13,52%; 14.400 ngàn m­3 nước máy thương phẩm, tăng 8,89% so với chính tháng đầu năm 2016....

c) Chỉ số sử dụng lao động

Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh chín tháng đầu năm tăng 15,12% so với cùng kỳ. Chia theo ngành công nghiệp cấp I, riêng ngành khai khoáng giảm 4,74% so với cùng kỳ; các ngành còn lại đều có chỉ số tăng, ngành có chỉ số sử dụng lao động tăng cao cùng kỳ là ngành chế biến chế tạo tăng 15,52%. Theo thành phần kinh tế, doanh nghiệp nhà nước tăng 2,51%, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 32,98%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,80% so với cùng kỳ năm trước.

d) Chỉ số tiêu thụ, tồn kho

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chín tháng đầu năm tăng 31,17% so với cùng kỳ năm 2016. Riêng ngành sản xuất trang phục có chỉ số tiêu thụ giảm so với cùng kỳ, các ngành còn lại đều có chỉ số tiêu thụ tăng cao. Trong đó, ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 19,64%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 53,05%, ngành sản xuất phương tiện vận tải tăng 39,75%; ngành sản xuất xe có động cơ tăng 17,98% ...

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Chín tăng 5,42% so với tháng trước. Trong đó, ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 28,56%, ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 24,34%; ngành sản xuất phương tiện vận tải tăng 11,35%; ngành sản xuất xe có động cơ tăng 9,65%...

4. Đầu tư - xây dựng

Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được tỉnh quan tâm, đẩy mạnh. Năm 2017, tỉnh chú trọng tập trung hoàn thiện các cơ sở hạ tầng tại nhiều cụm, khu công nghiệp trong tỉnh đồng thời có những chính sách thu hút đầu tư linh hoạt, thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư. Tính đến ngày 20/8/2017 tỉnh đã thu hút thêm 25 dự án FDI, chủ yếu là các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp điện tử với tổng số vốn đầu tư 52,41 triệu USD, điều chỉnh tăng vốn 28 dự án với tổng số vốn tăng thêm là 186,79 triệu USD. Đáng chú ý có Dự án sản xuất, gia công bộ sạc, bộ cấp nguồn dùng cho tivi, màn hình, máy chủ của Công ty TNHH Solum (Hàn Quốc) với tổng mức đầu tư 30 triệu USD; dự án mở rộng của Công ty TNHH Daeduck Việt Nam với tổng vốn đầu tư tăng thêm 16 triệu USD; Nhà máy sản xuất hàng may mặc Việt Nam tăng vốn 10 triệu USD... Tính chung tám tháng đầu năm thu hút đầu tư nước ngoài đạt 239,2 triệu USD, bằng 95,7% so với kế hoạch HĐND tỉnh giao năm 2017. Đáng chú ý là các dự án mở rộng tăng vốn chiếm tỷ trọng cao, điều đó cho thấy rằng môi trường đầu tư của tỉnh ổn định, nhà đầu tư tiếp tục tin tưởng mở rộng sản xuất kinh doanh.

Công tác giải ngân nguồn vốn ODA chín tháng đầu năm tiếp tục được tăng cường thực hiện. Năm 2017 bốn dự án ODA chính của tỉnh Vĩnh Phúc là Dự án cải thiện môi trường đầu tư, Dự án Quản lý nguồn nước và ngập lụt Vĩnh Phúc (vốn WB), Chương trình Phát triển các đô thị xanh (ADB), Dự án Cầu Đầm Vạc (OFID) tiếp tục được tỉnh quan tâm và giải ngân vốn. Trong đó Dự án cải thiện môi trường đầu tư đã cơ bản hoàn thành, đang làm các thủ tục quyết toán toàn dự án, các dự án còn lại được thực hiện đúng tiến độ và hiệp định vay đã ký giữa Chính phủ và nhà tài trợ.

 Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trên địa bàn tỉnh chín tháng đầu năm dự kiến đạt 19.788 tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ. Trong đó, nguồn vốn nhà nước trên địa bàn đạt 4.871 tỷ đồng, tăng 15,47%; vốn ngoài nhà nước là 10.123 tỷ đồng, tăng 16,70%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 4.794 tỷ đồng, tăng 10,01% so với cùng kỳ.

5. Tài chính, ngân hàng

a) Thu chi ngân sách

UBND tỉnh đã chỉ đạo nhiều giải pháp điều hành thu Ngân sách nhà nước, trong đó đôn đốc khai thác các nguồn thu trên tất cả các lĩnh vực; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế, trốn thuế, nợ thuế. Tuy nhiên, thu ngân sách từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài gặp khó khăn do công ty công ty Toyota và Honda thay đổi chiến lược kinh doanh chuyển sang nhập khẩu hai dòng xe Fortuner, Civic; bên cạnh đó, do thuế nhập khẩu linh kiện, xe nguyên chiếc từ các nước Asean giảm ảnh hưởng đến tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh. Dự kiến chín tháng đầu năm thu ngân sách đạt 19,6 nghìn tỷ đồng, đạt 58% dự toán, trong đó riêng thu nội địa đạt 16,9 nghìn tỷ đồng, đạt 55% dự toán.Tổng chi ngân sách nhà nước chín tháng dự kiến đạt 9,36 nghìn tỷ đồng, bằng 56% so dự toán và tăng 12,7% so cùng kỳ.

b) Tín dụng, ngân hàng

Trong sáu tháng đầu năm 2017, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ ổn định mặt bằng lãi suất, chỉ đạo các Tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh để giữ ổn định lãi suất huy động, phấn đấu giảm lãi suất cho vay. Từ ngày 10/7/2017, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh giảm 0,25%/năm các mức lãi suất điều hành là lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và điểu chỉnh giảm 0,5%/năm mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa của Tổ chức tín dụng đối với 5 lĩnh vực ưu tiên nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phát triển. Theo đó, mặt bằng lãi suất của hệ thống các Tổ chức tín dụng  trên địa bàn tỉnh như sau:

 - Lãi suất huy động bằng Việt Nam Đồng: Phổ biến ở mức từ 0,8% đến 1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; từ 4,5% đến 5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; từ 5,4% đến 6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức từ 6,4% đến 7,2%/năm.

- Lãi suất cho vay: Các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn đã giảm lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Hội sở chính và của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức từ 6% đến 6,5%/năm đối với ngắn hạn; từ 7% đến 9%/năm đối với trung, dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức từ 6,8% đến 9%/năm đối với ngắn hạn và từ 9% đến 10,5%/năm đối với trung và dài hạn.

Đến 31/8/2017, nguồn vốn huy động đạt 53.549 tỷ đồng, tăng 9,38% so với cuối năm 2016. Trong đó, huy động bằng Việt Nam Đồng chiếm 90,04%, huy động vốn bằng ngoại tệ chỉ chiếm 9,96% tổng nguồn vốn huy động. Dự kiến đến 30/9/2017, tổng nguồn vốn huy động đạt 54.150 tỷ đồng, tăng 1,12% so với tháng trước và tăng 10,61% so với cuối năm 2016.

Tổng dư nợ tín dụng đến 31/8/2017 đạt 49.621 tỷ đồng, tăng 17,41%  so với cuối năm 2016. Dự kiến đến 30/9/2017, tổng dư nợ cho vay đạt 50.380 tỷ đồng, tăng 19,2% so với cuối năm 2016. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 29.660 tỷ đồng, tăng 21,56% so với cuối năm 2016, chiếm 58,87% tổng dư nợ; dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 20.720 tỷ, tăng 15,98% so với cuối năm 2016, chiếm 41,23% tổng dư nợ.

6. Thương mại, dịch vụ và giá cả

a) Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Chín tháng đầu năm, tình hình kinh doanh thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh ổn định; số lượng các cơ sở tham gia kinh doanh thương mại dịch vụ biến động không nhiều, nhưng nhiều đơn vị, cơ sở đã mở rộng ngành nghề, đa dạng hoá các mặt hàng và phương thức kinh doanh nên kết quả lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ đã đáp ứng tốt nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín dự kiến đạt 3.536 tỷ đồng, tăng 1,94% so tháng trước và tăng 19,60% so với cùng kỳ. Tính chung chín tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 29.641 tỷ, tăng 11,87 % so với cùng kỳ. Trong đó, kinh tế nhà nư­ớc đạt 185 tỷ đồng, tăng 14,49%; kinh tế tập thể 45,6 tỷ, tăng 25,89%; kinh tế cá thể 15.652 tỷ, tăng 10,72%; kinh tế tư nhân 11.868 tỷ, tăng 14,36%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.890 tỷ tăng 6,03% so cùng kỳ năm 2016. Phân theo nhóm ngành kinh tế, ngành thương nghiệp bán lẻ thực hiện 25.727 tỷ đồng, tăng 11,97%; kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 2.563 tỷ, tăng 10,72%; các ngành dịch vụ phục vụ tiêu dùng khác thực hiện 1.351 tỷ, tăng 12,31% so cùng kỳ.

b) Vận tải hành khách và hàng hoá

Tổng khối l­ượng hàng hoá vận chuyển trên địa bàn tỉnh tháng Chín dự kiến đạt 2.381 ngàn tấn, luân chuyển đạt 146,9 triệu tấn.km. So với tháng trước tăng 0,4% về tấn và tăng 0,1% về tấn.km; so với cùng kỳ năm trước tăng 15,18% về tấn và tăng 13,33% về tấn.km. Tính chung chín tháng đầu năm, vận chuyển hàng hóa đạt 20.901 ngàn tấn, luân chuyển đạt 1.429 triệu tấn.km, tăng 6,66% về tấn và tăng 5,87% về tấn.km so với cùng kỳ năm 2016.

Khối l­ượng hành khách vận chuyển tháng Chín đạt 1.752 ngàn ngư­ời, luân chuyển đạt 156,4 triệu ngư­ời.km. So tháng trước tăng 1,70% về người và tăng 1,37% về người.km; so với cùng kỳ năm trước tăng 7,43% về người và tăng 6,60% về người.km. Tính chung chín tháng đầu năm, vận chuyển đạt 18.039 ngàn người, luân chuyển đạt 1.350,8 triệu người.km, tăng 6,25% về người và tăng 5,68% về người.km so với cùng kỳ.

Dự kiến tổng doanh thu vận tải chín tháng đầu năm đạt 2.698 tỷ đồng, tăng 13,33% so cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hàng hoá đạt 1.986 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 73,62% trong tổng doanh thu, tăng 11,53% so với cùng kỳ năm 2016; doanh thu vận tải hành khách đạt 660 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 24,46% trong tổng doanh thu, tăng 14,93% so với cùng kỳ năm 2016.

c) Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trên địa bàn tỉnh bình quân chín tháng đầu năm tăng 3,68% so với bình quân cùng kỳ. CPI chín tháng tăng do chịu tác động của một số yếu tố sau:

- Giá xăng dầu biến động liên tục. Từ đầu năm đến nay, giá dầu xăng đã trải qua 18 kỳ điều chỉnh, trong đó giá xăng tăng 8 lần, giảm 7 lần (so mức độ tăng, giảm thì mức độ tăng vẫn cao hơn). So với đầu năm, giá xăng đã tăng thêm hơn 2.100 đồng/lít. Đây là nguyên nhân chính làm chỉ số nhóm giao thông bình quân chín tháng đầu năm tăng 7,10% so với bình quân cùng kỳ;

- Thực hiện Công văn 2159/BHXH-BT của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, từ ngày 01/7/2017, áp dụng mức lương cơ sở 1,3 triệu đồng/tháng làm căn cứ tính mức lương đóng một số loại bảo hiểm, theo đó đã kéo chỉ số nhóm Bảo hiểm Y tế tăng 3,51%;

- Tỉnh áp dụng điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế - Bộ Tài chính và công văn số 1367/BYT-KH-TC ngày 21/3/2017 của Bộ Y tế tăng theo bước 2 bao gồm chi phí trực tiếp, phụ cấp đặc thù, và chi phí tiền lương quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc được áp dụng từ ngày 01/3/2017 nên chỉ số giá nhóm dịch vụ y tế bình quân chín tháng đầu năm tăng 63,82% so với bình quân cùng kỳ;

 - Chỉ số giáo dục tăng 12,35% so bình quân cùng kỳ chủ yếu là do học phí của Trường đại học Giao thông Vận tải đóng trên địa bàn được điều chỉnh tăng theo lộ trình Nghị định 86/2015/NĐ-CP ngày 2/10/2015 quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021;

- Giá thép tăng cao (trong quý III) do khan hiến nguồn cung nguyên liệu, các nhà máy EAF hạn chế sản lượng bán phôi thép ra thị trường khiến giá phôi thanh trong nước bật tăng cũng là một trong các yếu tố tác động đến mức tăng của CPI bình quân chín tháng đầu năm nay.

Bên cạnh một số yếu tố làm CPI tăng cũng có một số yếu tố kìm hãm CPI trong chín tháng đầu năm. Trong đó, thực phẩm giảm 5,84%, kéo theo ăn uống ngoài gia đình giảm 1,68% làm cho nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống bình quân chín tháng đầu năm giảm 4,35% so với bình quân cùng kỳ. Nguyên nhân chủ yếu là do giá thịt lợn hơi giảm mạnh trong những tháng đầu năm. Giá cả các nhóm hàng còn lại tương đối ổn định.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Công tác giải quyết lao động, việc làm, bảo đảm an sinh xã hội

Với mục tiêu góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, dư thừa lao động và giảm nghèo, trong những năm gần đây tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, biện pháp khuyến khích, ưu tiên đào tạo nghề, giải quyết việc làm, thúc đẩy hoạt động đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Bên cạnh đó, tỉnh tiếp tục cho vay vốn đối với các dự án hỗ trợ việc làm, dành các khoản vay ưu đãi với lãi suất thấp đối với người thất nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh có khả năng thu hút nhiều lao động, duy trì mở các phiên giao dịch việc làm, kịp thời đăng tải thông tin tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp trên các trang mạng của Ban Quản lý các khu công nghiệp, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh...

Tính đến hết tháng Tám, Trung tâm giới thiệu việc làm làm tỉnh Vĩnh Phúc đã tổ chức 27 phiên giao dịch việc làm, có 376 doanh nghiệp đăng ký tham gia tuyển dụng, tuyển được 1.444 người qua Sàn giao dịch việc làm.

Chế độ, chính sách cho các đối tượng chính sách, gia đình khó khăn được các cấp, các ngành quan tâm chăm lo và thực hiện nghiêm theo quy định. Công tác bảo trợ xã hội luôn được các cấp, các ngành duy trì; tiếp tục công tác tiếp nhận, quản lý, nuôi dưỡng, chăm sóc và phục hồi chức năng cho đối tượng ở Trung tâm bảo trợ xã hội và Trung tâm Nuôi dưỡng, phục hồi chức năng người tâm thần của tỉnh. Trong những năm qua, để giúp người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ y tế, từ năm 1997 tới nay, tỉnh Vĩnh Phúc đã dành hơn 600 tỷ đồng để hỗ trợ tiền bảo hiểm y tế cho người nghèo. Tính đến hết tháng Tám, có 32.776 thẻ Bảo hiểm Y tế được cấp cho người nghèo; 41.891 thẻ Bảo hiểm Y tế được cấp cho người cận nghèo; 9.425 thẻ Bảo hiểm Y tế được cấp cho đối tượng dân tộc thiểu số và trên 152.180 trẻ dưới 6 tuổi được cấp thẻ Bảo hiểm Y tế miễn phí.

2. Giáo dục và đào tạo

Từ đầu năm đến nay, ngành Gioiáo dục đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ như dạy học các chủ đề tích hợp liên môn, kỹ năng sống, kỹ năng xây dựng mô hình học tập,... cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong ngành. Thực hiện tốt công tác tuyển sinh và khai giảng năm học mới 2017-2018. Đầu tư cơ sở vật chất trường học từng bước được điều chỉnh giữa các cấp học cho phù hợp với nhu cầu thực tế, nhất là đối với bậc học mầm non; công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được đẩy nhanh tiến độ gắn với yêu cầu chuẩn chất lượng và từng bước đạt chất lượng cao.

Chất lượng giáo dục cả đại trà và mũi nhọn tiếp tục được giữ vững. Kết quả thi THPT quốc gia năm 2017, Vĩnh Phúc là một trong 6 tỉnh có điểm bình quân các môn cao nhất cả nước; tỷ lệ học sinh lớp 12 tốt nghiệp đạt 98,85%. Năm học 2016-2017, có 77 học sinh giành các giải quốc gia; 1 Huy chương Đồng tại kỳ Olympic Toán quốc tế; 64 huy chương tại kỳ thi giải Toán qua internet; 114 huy chương tại cuộc thi Olympic tiếng Anh trên internet; 90 huy chương tại kỳ thi tiếng Anh thông minh, xếp thứ Nhất toàn quốc. Tại cuộc thi “Nuôi tinh thể ươm mầm khoa học” được tổ chức tại Vương quốc Bỉ, nhóm học sinh Trường THPT chuyên Vĩnh Phúc đoạt Huy chương Bạc.

3. Y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm

Sở Y tế chỉ đạo các đơn vị chủ động theo dõi, giám sát tình hình các bệnh dịch, nhất là bệnh dịch có nguy cơ bùng phát ở một số địa phương trên phạm vi cả nước như dịch bệnh Sốt xuất huyết, xây dựng Kế hoạch phòng chống dịch, tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện và xã; tổ chức truyền thông theo phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh trên các phương tiện thông tin đại chúng... Trong 9 tháng đầu năm 2017 trên địa bàn tỉnh không có dịch lớn xẩy ra, chỉ có một số ca bệnh rải rác ở 9 huyện, thị, thành. Ước 9 tháng đầu năm 2017 trên địa bàn tỉnh: Sốt xuất huyết có 600 ca mắc (tăng 582 ca so với cùng kỳ năm 2016), trong 600 ca mắc có 23 ca nội tỉnh, có 17 ổ dịch rải rác các huyện, thị, không có trường hợp tử vong, không có ca sốt xuất huyết nặng; có 7.888 người mắc Cúm, giảm 3.130 trường hợp; 2.581 ca tiêu chảy, giảm 1.026 ca; 274 ca mắc bệnh Tay-Chân-Miệng, tăng 51 ca và 14 ca mắc Sởi, giảm 25 ca so với cùng kỳ 2016.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường, hoạt động thanh, kiểm tra liên ngành được đẩy mạnh thành các đợt cao điểm trong dịp Tết Nguyên đán, Lễ hội, nghỉ lễ dài ngày. Đối tượng được thanh, kiểm tra chủ yếu là các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ăn uống, bếp ăn tập thể. Kết quả cho thấy: Tỷ lệ đạt tiêu chuẩn chất lượng ATVSTP là 84%; tỷ lệ cơ sở không đạt tiêu chuẩn chất lượng ATVSTP là 16%. Đoàn kiểm tra đã xử lý các trường hợp vi phạm nội dung về ATVSTP theo đúng quy định của Pháp luật.Trong 9 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm, với 19 người mắc, không có trường hợp tử vong. So với 9 tháng đầu năm 2016, số vụ ngộ độc giảm 01 vụ, số người mắc giảm 145 người.

Công tác truyền thông về phòng chống HIV/AIDS tới cộng đồng tiếp tục được đẩy mạnh từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn. Số mẫu lấy xét nghiệm tính đến ngày 30/8/2017 là 6.200 mẫu, đạt 104,3% so với cùng kỳ năm 2016; số người nhiễm HIV mới phát hiện trong năm là 141 người, tăng 3 người so với cùng kỳ 2016, lũy tích số người nhiễm HIV trên địa bàn tỉnh tính đến hết tháng 8/2017 là 4.050, số người chuyển AIDS là 2.169 người, lũy tích số người tử vong do AIDS là 906 người.

4. Các hoạt động văn hoá và thể thao

Chín tháng đầu năm, nhiều hoạt động văn hoá, nghệ thuật diễn ra sôi nổi, đa dạng nhằm chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh như: Tổ chức Lễ hội Tây Thiên phục vụ du khách thập phương; trưng bày một số hình ảnh, tài liệu, hiện vật về giáo dục khoa cử tỉnh Vĩnh Phúc tại Văn Miếu tỉnh; tổ chức triển lãm hoa anh đào tại Quảng trường Hồ Chí Minh; phối hợp với Đại sứ quán Ấn Độ tổ chức thành công Lễ kỷ niệm ngày quốc tế Yoga; tổ chức Liên hoan ca múa nhạc các nước Asean nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Asean...

Hoạt động thể dục thể thao được đẩy mạnh, từ đầu năm đến nay, vận động viên của các đội tuyển thể thao thành tích cao đã tham gia thi đấu đạt 196 huy chương các loại. Kết quả như sau: Tổng số Huy chương trong nước: 184 huy chương, trong đó: 48 huy chương Vàng, 57 huy chương Bạc và 79 huy chương Đồng; Tổng số huy chương Quốc tế:12 huy chương; gồm 02 huy chương Vàng, 02 huy chương Bạc và 08 huy chương Đồng (trong đó có 02 huy chương tại Seagames 29 của VĐV Phan Thị Bích Hà- huy chương Bạc môn Điền kinh và VĐV Nguyễn Thị Yến- huy chương Đồng môn Pencak Silat).

5. Tình hình trật tự, an toàn giao thông và phòng chống cháy nổ

Tình hình trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững. Tội phạm hình sự trong tầm kiểm soát, không có diễn biến phức tạp, không để hình thành tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen. Tuy nhiên, tội phạm giết người, cố ý gây thương tích do nguyên nhân xã hội có thời điểm phức tạp; tội phạm trộm cắp tài sản vẫn xảy ra nhiều và chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tội phạm. Tội phạm về ma túy được kiềm chế, không phát sinh các tuyến, địa bàn, tụ điểm phức tạp, chủ yếu các vụ nhỏ, lẻ. Tệ nạn xã hội như đánh bạc, mại dâm vẫn tiềm ẩn, diễn ra ở hầu hết các địa bàn.

Trật tự an toàn giao thông được đảm bảo, không xảy ra các điểm đen mất an toàn giao thông, tuy nhiên các lỗi vi phạm khi tham gia nạn giao thông còn khá phổ biến do ý thức của người tham gia giao thông còn hạn chế. Theo báo cáo của Công an tỉnh: Trong 03 ngày nghỉ Lễ 2/9, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông giữa 03 ô tô khách trên tuyến đường Cao tốc Nội Bài- Lào Cai qua địa phận huyện Bình Xuyên làm 06 người bị thương, 03 xe ô tô hư hỏng. Lực lượng chức năng tuần tra kiểm soát trên địa bàn tỉnh trong dịp này đã phát hiện lập biên bản 552 trường hợp vi phạm, tạm giữ 171 phương tiện, 381 bộ giấy tờ xe. Tính đến ngày 15/8/2017, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 23 vụ tai nạn giao thông, làm 22 người chết, 27 người bị thương; so với cùng kỳ năm trước  giảm cả 3 tiêu chí số (giảm 05 vụ, giảm 06 người chết và giảm 28 người bị thương) .

Theo số liệu của Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy tỉnh, từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 21 vụ cháy, ước tính giá trị thiệt hại 21,8 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cháy, nổ là do chập điện (khoảng 70%) còn lại là sơ suất trong sản xuất, sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt…

Công tác về bảo vệ môi trường được các ngành chức năng chú trọng, gắn với việc xây dựng nông thôn mới; các hoạt động thẩm định, cấp phép đăng ký chủ nguồn thải được đẩy mạnh; đôn đốc tiến độ triển khai các dự án về bảo vệ môi trường như xử lý nước thải nông thôn, xây dựng lò đốt chất thải rắn nông thôn; triển khai nhiệm vụ quan trắc hiện trạng môi trường, kiểm soát ô nhiễm các nguồn thải lớn. Tính đến 15/9, các cơ quan chức năng trong tỉnh đã phát hiện và xử lý 14 vụ vi phạm môi trường, số tiền xử phạt là 1.852 triệu đồng./.

 

luat_sua_doi_ltk

Đang truy cập: 11
Trong ngày: 112
Trong tuần: 890
Lượt truy cập: 1429842

Xin cho biết ý kiến của bạn về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc?
Tốt
Khá
Trung bình
Kém

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚCChung nhan Tin Nhiem Mang

Địa chỉ: Số 20

Lý Thái Tổ - Phường Đống Đa - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

Điện thoại: 0211 3 861 139, Fax: 0211 3 843 841Email: vinhphuc@gso.gov.vn, cuctk@vinhphuc.gov.vn